Top 6 Bài soạn “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân lớp 12 hay nhất

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn … xem thêm…chương để ca ngợi vẻ đẹp kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết sau đây để hiểu tác phẩm và thấy rõ hơn tài hoa của Nguyễn Tuân.

Bài soạn “Người lái đò sông Đà” số 1

Kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm
I. Tác giả
– Nguyễn Tuân sinh ngày: 10-07-1910, quê quán: Hà Nội.
– Ông là con của một gia đình công chức.
– Thời niên thiếu ông được đi nhiều nơi, tham gia chống người Pháp, từng làm thư kí nhà máy đèn.
– Năm 1930, ông bắt đầu viết văn làm báo. Năm 1937, ông chuyên tâm viết văn.
– Những tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời, Những chuyến đi,…
>>> Chi tiết về tiểu sử của tác giả Nguyễn Tuân các bạn có thể xem lại nội dung soạn bài Chữ người tử tù đã được học ở chương trình Văn lớp 11.

II. Tác phẩm
– Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân
– Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng.
– Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.

– Bố cục:
+ Phần 1 (từ đầu đến “…cái gậy đánh phèn”): tính cách hung bạo của con Sông Đà
+ Phần 2 (tiếp đến “…dòng nước Sông Đà”): ngợi ca phẩm chất trí dũng, tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò.
+ Phần 3 còn lại: khắc họa vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà qua đó thể hiện lòng yêu thiên nhiên đất nước của tác giả.

Câu 1 (trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Tác phẩm người Lái đò sông Đà thể hiện sự quan sát công phu, tìm hiểu kĩ càng của nhà văn trên các phương diện:

– Tác giả miêu tả sông Đà từ những chi tiết cụ thể, sinh động và thực tế

– Tác giả miêu tả từ nhiều góc quan sát độc đáo khác nhau

+ Từ trên máy bay thấy sông Đà như một sợi dây thừng

+ Trực tiếp ngồi trên thuyền tham gia hành trình trên sông Đà

Câu 2 (trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Để khắc họa hình tượng sông Đà như một con sông hung bạo, tác giả có sử dụng các biện pháp nhân hóa, so sánh:

+ Bờ sông, dựng vách thành… có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một yết hầu, lòng sông như có chỗ nằm gọn giữa hai bờ vách như con hang động huyền bí

+ Khung cảnh mênh mông hàng cây số nước đá…như lúc nào cũng đòi nợ xuýt

+ Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu

– Biện pháp nhân hóa: âm thanh

+ Tiếng nước réo nghe như oán trách, lúc như van xin, khiêu khích, giọng gằn như chế nhạo

→ Biện pháp tu từ khiến cho dòng sông Đà trở nên nổi bật với sức mạnh hoang dại, vẻ hùng vĩ, sự dữ tợn, táo bạo trước góc miêu tả tinh tế của tác giả

Câu 3 (trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Dòng sông Đà trữ tình:

– Sự liên tưởng độc đáo: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình của người thiếu nữ

– Sông Đà được nhìn qua làn mây, qua ánh nắng với màu sắc

+ Xuân: xanh màu xanh ngọc bích

+ Thu: lừ đừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa

– Sông Đà gắn bó với con người tựa cố nhân

– Bờ sông hoang dại, bình lặng như thời tiền sử- hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa

→ Sông Đà trữ tình, hiền hòa, sự tài hoa của Nguyễn Tuân đã mang lại những áng văn bức tranh trữ tình làm say đắm lòng người

Câu 4 (trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Hình ảnh người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông Đà hung bạo

– Con người nhỏ bé đời thường, không vũ khí, không phép màu, có thể thắng được thạch trận đủ 3 lớp

– Người lái đò được miêu tả là người tài năng, nhanh trí, vượt thác như cưỡi ghềnh, xé toang lớp này đến lớp khác trùng vi thạch trận

– Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉ, thất vọng qua bộ mặt xanh lè

→ Người lái đò chiến thắng trong trận chiến cam go bằng sự ngoan cường, dũng cảm, tài trí.

Ông lái đò đúng là thứ vàng mười của đất nước, xứng đáng được tôn vinh, ngợi ca

Câu 5 (trang 193 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân:

Biện pháp so sánh:

+ Tiếng thác nước nghe như oán trách…

+ Sóng nước như thế quân liều mạng…

+ Con sông Đà tuôn dài như một áng trữ tình…

+ Bờ sông hoang dại… cổ tích tuổi xưa

→ Sông Đà hiện lên vừa thơ mộng, trữ tình, vừa dữ dội, bạo tàn

Luyện tập

Bài 1 (trang 193 sgk ngữ văn 12 tập 1):

Tìm đọc trọn vẹn tùy bút Người lái đò sông Đà.

“Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình…mỗi độ thu về”

Mở bài: giới thiệu khái quát tác phẩm, tác giả

Nêu được vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà thể hiện trong đoạn văn trên

Thân bài: Hình ảnh sông Đà trữ tình

+ Màu sắc độc đáo, hình sáng mềm mại, hiện lên trong sự diễm lệ của núi rừng Tây Bắc

+ Sông Đà được so sánh gợi cảm, ấn tượng

– Cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân

+ Chất nghệ sĩ, rung cảm trước cái đẹp đầy màu sắc, nhìn bằng con mắt của người họa sĩ

+ Cái tôi tài hoa, nhìn sự vật dưới góc độ thẩm mĩ

+ Đó là cái tôi uyên bác, tài hoa

Kết bài: Tác giả với sự tài hoa, giàu thẩm mỹ đã tìm ra được sự.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Người lái đò sông Đà” số 2

I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân
– Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn
– Quê thuộc làng Mộc, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà nội
– Sau khi học hết bậc thành chung, ông viết văn và làm báo
– Cách mạng tháng Tám thành công, ông đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút của mình để phục vụ cuộc kháng chiến
– Từ năm 1948 đến năm 1968, ông là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam
– Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có vị trí to lớn và vai trò không nhỏ đối với nền văn học Việt Nam
– Năm 1996, ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
– Các tác phẩm chính: Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Thiều quê hương, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi…
– Phong cách nghệ thuật: phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự thay đổi trong những sáng tác ở thời kì trước và sau cách mạng tháng Tám song có thể thấy những điểm nhất quán sau:
+ Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân. Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện:
•• Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ
•• Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ
•• Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng
+ Ông là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ,…
+ Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

II. Đôi nét về tác phẩm Người lái đò sông Đà
1. Hoàn cảnh ra đời
– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi miền Bắc vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó
– Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960)

2. Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “cái gậy đánh phèn”): Vẻ hung dữ của con sông Đà
– Phần 2 (tiếp đó đến “dòng nước sông Đà”): Cuộc sống của con người trên sông Đà và hình ảnh người lái đò sông Đà
– Phần 3 (còn lại): vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà

3. Giá trị nội dung
– Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiêt tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc
– Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.

4. Giá trị nghệ thuật
– Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật vào trong tác phẩm
– Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị
– Bút pháp: kết hợp hài hào giữa hiện thực và lãng mạn
– Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa


Trả lời câu 1 trang 192 SGK Ngữ văn 12, tập 1

– Nắm chắc thủy trình và các đặc điểm cụ thể của sông Đà (vách đá, ghềnh Hát Lóong, hút nước, thác đá, màu nước, vẻ đẹp đôi bờ…); Miêu tả tỉ mỉ, sinh động ba vòng thạch trận của sông Đà; Hiểu rõ sự nguy hiểm và vẻ đẹp, tính cách của con Sông độc đáo này.

– Nắm chắc vẻ đẹp phẩm chất và tài nghệ chèo đò vượt thác của ông đò: miêu tả tỉ mỉ, ngoạn mục tài hoa của ông đò khi vượt qua ba trùng vây thạch trận của sông Đà; thấy được vẻ đẹp bình dị của ông đò sau khi vượt thác.


Trả lời câu 2 trang 192 SGK Ngữ văn 12, tập 1

– Vận dụng cách nhìn, cách tiếp cận và tri thức của nhiều lĩnh vực để miêu tả sự hùng vĩ, hung bạo của sông Đà như điện ảnh, quân sự, địa lí,…

– Ngòi bút miêu tả tỉ mỉ cùng thủ pháp nhân hóa được khai thác hiệu quả triệt để khi miêu tả sự hung bạo của sông Đà.

– Nghệ thuật sử dụng ngôn từ đạt đến độ tài hoa, nhiều câu văn dài nhưng giàu nhạc điệu, giàu chất tạo hình, sức biểu cảm và biểu đạt cao.


Trả lời câu 3 trang 192 SGK Ngữ văn 12, tập 1

– Khi viết về dòng sông hung bạo, Nguyễn Tuân sử dụng lối hành văn mạnh mẽ, mãnh liệt với những câu văn dài, phức tạp, hùng tráng tương xứng với sự kì vĩ của dòng sông; Quan sát, miêu tả dòng sông ở khoảng cách gần, cụ thể, tỉ mỉ.

– Khi viết về dòng sông trữ tình, tác giả sử dụng cách viết co duỗi nhịp nhàng, âm điệu uyển chuyển, hình ảnh thơ mộng, liên tưởng độc đáo phóng khoáng. Nhà văn quan sát và miêu tả con sông trữ tình từ nhiều góc độ, khi thì ngắm dòng sông từ tầm cao khi bay tạt ngang qua sông Đà khi thì ngắm dòng sông khi ở gần như quan sát màu nước, cảnh đôi bờ.


Trả lời câu 4 trang 192 SGK Ngữ văn 12, tập 1

– Cuộc sống hàng ngày của ông đều là cuộc chiến với thiên nhiên.

– Nhiều năm gắn bó với việc chèo thuyền, ngoại hình của ông mang đặc trưng nghề nghiệp (tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh…trong sương mù).

– Ông đò rất am hiểu dòng sông: nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá; thuộc quy luật phục kích…hiểm trở này.

– Ông đò chinh phục sông Đà hung bạo thể hiện qua việc vượt ba trùng vây thạch trận:

+ Thủy quái sông Đà: có diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1, nguy hiểm và hung bạo, đầy cạm bẫy với những ghềnh, thác, hút nước, sóng nước, với thạch trận trùng điệp đầy luồng chết chầu chực nuốt chửng, đập tan con thuyền.

+ Ông đò vượt trùng vây thứ nhất: Đá thác hiếu chiến (bệ vệ oai phong, hất hàm), nước thác làm thanh viện ùa vào đòi bẻ cán chèo, đội thuyền, túm lấy thắt lưng, bóp chặt hạ bộ ông đò => ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.

+ Ông đò vượt trùng vây thứ hai: trùng vây thứ 2 tăng thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh bị bố trí lệch đi => ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà…lái miết một đường chéo…rảo bơi chèo lên…sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

+ Ông đò vượt qua trùng vây thứ ba: vòng 3 bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ => ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa..lượn được.

=> Ông đò là người anh hùng, người nghệ sĩ trong công việc chèo đò vượt thác. Ông đại diện cho con người Tây Bắc và là chất vàng mười của đất nước ta.


Trả lời câu 5 trang 193 SGK Ngữ văn 12, tập 1

– Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.

=> Câu văn giàu hình ảnh với lối so sánh độc đáo và khả năng gợi hình, gợi cảm mềm mại, hấp dẫn => đặc tả vẻ đẹp trữ tình, mềm mại, duyên dáng, tràn đầy sức sống của dáng vẻ sông Đà giữa mùa xuân.

– Lại như quãng mặt ghềnh Hát Lóong, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió ghùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy.

=> Câu văn dài, tách thành nhiều vế cùng lối điệp liên hoàn và nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài tình làm diện mạo hung bạo, hiếu chiến của sông Đà hiện lên thật rõ nét.

Luyện tập

Câu 2 (trang 193 SGK Ngữ văn 12 tập 1)

Gợi ý:

Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân…Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra mà đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.

– Nội dung

+ Đoạn văn tập trung miêu tả vẻ đẹp đầy chất tạo hình của sông Đà với hình dáng thơ mộng, đường nét mềm mại, ẩn hiện; màu sắc dòng nước biến đổi tương phản theo mùa, gây ấn tượng mạnh.

+ Hiện diện một cái tôi Nguyễn Tuân đắm say, nồng nhiệt với cảnh sắc thiên nhiên, tinh tế và độc đáo trong cảm nhận cái đẹp.

– Nghệ thuật

+ Hình ảnh, ngôn từ mới lạ; câu văn căng tràn, trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm thanh và nhịp điệu.

+ Cách so sánh, nhân hoá táo bạo mà kì thú; lối tạo hình giàu tính mĩ thuật, phối hợp nhiều góc nhìn theo kiểu điện ảnh.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Người lái đò sông Đà” số 3

Đọc – hiểu

Bài 1 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.

Trả lời:

– Sông Đà như có tính cách của một con người, tính cách ấy mâu thuẫn với nhau: hung bạo và trữ tình.

– Người lái đò sông Đà vừa là một anh hùng trên sóng nước vừa là một người nghệ sĩ tài hoa, thông minh tiêu biểu cho vẻ đẹp người lao động vùng núi Tây Bắc.

– Tác giả đã vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa khác nhau để miêu tả về sông Đà và người lái đò sông Đà: hội họa, điện ảnh, âm nhạc,… chúng được ông vận dụng một cách khéo léo, tài hoa cùng với kiến thức của những ngành văn hóa như: lịch sử, địa lý,… Chính vì vậy mà trang văn của Nguyễn Tuân khi đằm thắm giàu chất thơ, khi sinh động như một thước phim quay cận cảnh, khi tràn đầy màu sắc như một bức tranh độc đáo.

– Vốn kiến thức sâu rộng của tác giả đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến người đọc, khiến họ luôn say đắm, đắm mình khám phá những trang văn của ông.

Bài 2 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa được một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo.

Trả lời:

– Hướng chảy của dòng sông gợi cho ta sự độc đáo, bất thường: Chúng thuỷ giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu (Các dòng sông đều chảy về đông – Chỉ có sông Đà một mình chảy về phương Bắc).

– Bờ sông Đà (thượng nguồn) là cảnh tượng rất hiểm trở: “đá dựng vách thành”, chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu…

– Thác dày dặc, trong đó vô cùng độc dữ, nham hiểm là 73 cái thác ở phía thượng nguồn. Sự độc dữ của chúng hiện hình ngay qua tên gọi như: thác ổ gà, bãi Thằng Rồ, thác Từu Ông Từu Bà…

– Ngay cát sông Đà cũng là cát dữ: nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vết hà đục thủng đáy thuyền gỗ…

– Gió trên sông Đà lại càng đáng sợ: gió cuồn cuộn từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi), bằng cách lật ngửa bụng thuyền ra.

– Đáng sợ hơn đó là các hút nước trên mặt sông: nước ở đây ặc ặc lên như rót dầu sôi vào, hễ thuyền bè đi qua vô ý là nó lôi tuột xuống đánh tan xác ở đáy sông…

– Âm thanh tiếng nước sông Đà cũng thật ghê gớm: như là oán trách, như van xin, như khiêu khích, rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…

– Song khủng khiếp nhất ở Đà giang là trùng vi trạch thuỷ trận: đó là bao đá nổi, đá chìm phối hợp cùng các luồng nước dàn bày thạch trận, ập thành ba phòng tuyến với cả tập đoàn cửa tử đầy những tướng đá, quân nước hung dữ…

=> Tác giả vận dụng tài tình các biện pháp so sánh, nhân hóa kết hợp với ngôn ngữ miêu tả đầy tính tạo hình đã làm nổi bật lên sự hung bạo của dòng sông Đà. Sức mạnh hoang dại, vẻ đẹp kì vĩ và sự hung dữ của con sông qua góc nhìn và sự miêu tả tinh tế của Nguyễn Tuân.

Bài 3 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Cách viết của nhà văn đã thay đổi thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình.

Trả lời:

– Dáng vẻ dòng sông đầy thơ mộng: Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc tung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân… Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải. Sông Đà mang vẻ đẹp của một người thiếu nữ.

– Sắc màu nước biển đổi kì ảo theo từng mùa: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích, mùa thu từ từ chín đỏ..

– Sông Đà mang vẻ đẹp gợi cảm:

+ Dòng sông Đà trở về dòng chảy êm đềm, miên man, đầy quyến rũ.

+ Sông Đà được nhìn như một cố nhân, thể hiện mối tri âm, tri kỉ của tác giả với con sông.

+ Bờ sông hoang dại, bình lặng như thời tiền sử – hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa – Dòng sông lặng lờ trôi.

=> Sông Đà rất mực trữ tình hiền hoà. Sự tài hoa của ông đã mang đến những áng văn với bức tranh trữ tình đủ để lòng người say đắm, ngất ngây.

Bài 4 trang 192 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó, hãy cắt nghĩa vì sao, trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây Bức mới thật xứng đáng là vàng mười của đất nước ta.

Trả lời:

Bài tuỳ bút khắc họa hình ảnh người lái đò sông Đà:

– Vẻ đẹp khoẻ khoắn, cường tráng: dẫu đã bảy mươi tuổi nhưng ông lái đò vẫn có “thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun… Cánh tay vẫn là của một chàng trai trẻ tráng”.

– Sự lão luyện, tinh thông trong nghề nghiệp: ông lái đò hết sức am tường con sông Đà, có thể “nhớ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà hung bạo ấy, ông đã xuôi ngược hơn cả trăm lần…

– Vẻ đẹp nổi bật của người lái đò là vẻ đẹp của Trí – Dũng – Tài hoa: người lái đò hiện lên như vị chỉ huy dạn dày kinh nghiệm, nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến. Ông lái đò điều khiển con thuyền bằng bản lĩnh già dặn, lòng dũng cảm và tài hoa của một nghệ sĩ, tay lái ra hoa. Điều đó thể hiện qua việc ông chỉ huy con thuyền vượt qua “trùng vi thạch trận” dữ dằn, nham hiểm.

– Ý nghĩa của hình tượng ông lái đò:

+ Ca ngợi những người lao động bình thường mà anh hùng, tài năng…

+ Bài ca về sự chiến thắng của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên.

+ Bày tỏ quan niệm về giá trị của con người – dù làm gì nhưng tinh thông trong nghề nghiệp của mình thì cũng thật vinh quang: theo nhà văn cái bầm tụ trên ngực người lái đò do đầu sào in dấu là một thứ huân chương lao động siêu hạng.

Bài 5 trang 193 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Trả lời:

Một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân:

– Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì,… với đàn trâu da cháy bùng bùng.

– Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền.

– Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tính, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc… nương xuân.

– Bờ sông hoang dại… cổ tích tuổi xưa.

Luyện tập

Bài 2 trang 193 SGK Ngữ văn 12 tập 1

Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) thấy yêu thích, say mê nhất trong thiên tùy bút.

Gợi ý:

Anh (chị) tự chọn một đoạn mà mình thích trong thiên tùy bút để phân tích và nêu cảm nghĩ. Dưới đây là bài làm mẫu cảm nghĩ về đoạn từ “Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi…” đến “rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ…”:

Từ trên cao nhìn xuống sông Đà như một sinh thể xuất hiện trong bức tranh gấm vóc của non sông “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một ánh tóc trữ tình, dầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Sông Đà qua đoạn chợ Bờ đã không còn những thác đá, những hút nước, những trùng vây thạch trận mà là một con sông Đà trữ tình, mềm mại như dáng hình của người thiếu nữ. Với ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, sông Đà được ví như một áng tóc lại được đặt trong một câu văn rất giàu chất thơ khiến cho ta liên tưởng tới dáng hình của người con gái trẻ trung, duyên dáng với sức sống rạo rực, xuân thì trong mây trời, sương khói của Tây Bắc – một hình ảnh tinh tứ, quyến rũ như dáng chảy trôi mềm mại của con sông.

Nhìn ngắm dòng sông Đà ở nhiều thời điểm, thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của con sông để rồi ông nhận ra dòng nước biến đổi theo mùa giống như người thiếu nữ thay áo. Đó là “mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc Bích chứ không xanh màu xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô”. Đó là sắc trong trẻo, tươi sáng, lấp lánh đáng quý của Đà giang và dường như ngay trong cách miêu tả về đặc sắc của màu nước ấy còn mang cá tính của cả một con sông, một sinh thể. Mùa thu nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Đó là một so sánh đầy lí thú.

Sông Đà trong thời tiết mùa thu lại được hình dung như tâm trạng của con người bất mãn, bực bội; màu sắc lại được ví như da mặt của người bầm đi vì rượu bữa. Ấn tượng đọng lại trong tâm trí người đọc là hình ảnh của một dòng sông màu mỡ, màu đỏ của phù sa phì nhiêu, là sự giàu có của sức sống mà con sông đang trở nặng để vun đắp cho hai bờ, cho quê hương, cho đất nước này. Tác giả cũng khẳng định chưa bao giờ sông Đà có màu đen như thực dân Pháp đã đưa vào bản đồ của mình để thể hiện tình yêu say đắm với con sông xứ sở và cả sự tôn vinh quê hương, đất nước.

Tổng kết
Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.
Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Người lái đò sông Đà” số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1.Tác giả

Nguyễn Tuân (1910 -1987). Sinh tại Hà Nội trong một gia đình nhà nho. Ông học đến cuối bậc Thành Chung, tham gia bãi khoá, bị đuổi học (1929). Sau khi bị tù vì vượt biên giới sang Thái Lan, ông viết báo, viết văn. Năm1941 ông bị bắt giam vì giao du với những người hoạt động chính trị. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Nguyễn Tuân ntham gia Cách mạng và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. 1948- 1958 ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Năm 1996,ông được Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Con người

Giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc
Tài hoa, uyên bác:
Khám phá phát hiện sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ.
Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người
Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau trong sáng tác
Ngôn ngữ văn học:
Từ vựng phong phú
Tổ chức câu văn xuôi có giá trị tạo hình cao, có nhạc điệu trầm bổng, cách phối âm, phối thanh linh hoạt,tài hoa.
Sử dụng thể loại tùy bút thuần thục, có những thành tựu đặc sắc.
Những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật:

Trước Cách mạng tháng tám 1945, phong cách Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ NGÔNG. Đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình.
Sau Cách mạng tháng tám, Nguyễn Tuân hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân, ca ngợi cái đẹp không chỉ ở những tính cách phi thường mà còn ở cả những người lao động bình thường.


2. Tác phẩm

Giới thiệu chung

Tùy bút Sông Đà:
Ra đời năm 1960, tái bản năm 1978.

Cấu trúc: 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo.
Giá trị:

Phát hiện kì thú về tài nguyên, phong cảnh miền Tây Bắc
Khám phá đầy trân trọng về vẻ đẹp – chất “vàng mười” của tâm hồn con người Tây Bắc: ngược về quá khứ miêu tả chiến sĩ cách mạng nhà tù Sơn La, những cán bộ cách mạng hoạt động cách mạng thời giặc tạm chiếm, những bộ đội, dân công trong chiến dịch Điện Biên…, trở lại hiện tại để tìm những lớp người mở đường kiến thiết Tây Bắc…
Dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân.
Vị trí văn học sử: đỉnh cao sáng tác Nguyễn Tuân sau cách mạng.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà”

Rút từ tập “Sông Đà”.
Nhan đề: “Sông Đà” > “Người lái đò Sông Đà” > tác dụng: nổi rõ hình tượng trung tâm của tùy bút là người lái đò.
Giá trị:

Giá trị thông tin, tư liệu: công trình khảo cứu về Sông Đà > cung cấp những hiểu biết chân xác, lí thú về Sông Đà .
Lịch sử Sông Đà.
Địa thế đặc biệt của Sông Đà và phong cách vượt thác của người lái đò.
Lịch sử đấu tranh của nhân dân Tây Bắc.
Sự chuẩn bị của nhà nước để chinh phục Sông Đà.
Giá trị văn chương.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1

Chứng minh rằng Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kỹ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà.
Bài làm:
Tác phẩm Người lái đò sông Đà thể hiện sự quan sát công phu của Nguyễn Tuân trên các phương diện sau:
Tác giả đã miêu tả con sông Đà với tất cả các chi tiết sinh động và thực tế
Tác giả miêu tả từ nhiều góc độ, từ trên máy bay thấy sông Đà như một sợi dây thừng.
Hướng chảy của con sông thì độc đáo, Nhiều thác dữ, hiểm độc Hình ảnh bờ sông, dựng vách thành…có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một yết hầu, lòng sông như có chỗ nằm gọn giữa hai bờ vách giống như con hang động huyền bí.
Khung cảnh mênh mông dài hàng cấy số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè suốt mấy năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt. Đây là đoạn nguy hiểm cần người lại đò phải hết sức thận trọng.
Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu. Những âm thanh hết gần rồi lại xa: tiếng nước réo nghe như là oán trách, lúc lại như van xin, khiêu khích, giọng gằn như chế nhạo. Có lúc nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tác giả thật tài tình so sánh với hình ảnh đàn trâu để nổi bật lên sự hùng vĩ của dòng sông, tiếng nước chảy như những tiếng gầm vang cả núi rừng. Sức mạnh hoang dại, vẻ đẹp kì vĩ và sự hung dữ của con sông qua góc nhìn và sự miêu tả tinh tế của Nguyễn Tuân.

Câu 2: Trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1
Trong thiên tùy bút tác giả đã dùng những biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa một cách ấn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo.
Bài làm:
Hình ảnh bờ sông, dựng vách thành…có vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một yết hầu, lòng sông như có chỗ nằm gọn giữa hai bờ vách giống như con hang động huyền bí.
Khung cảnh mênh mông dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn suốt mấy năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt. Đây là đoạn nguy hiểm cần người lái đò phải hết sức thận trọng.
Những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu.
Những âm thanh hết gần rồi lại xa: tiếng nước réo nghe như là oán trách, lúc lại như van xin, khiêu khích, giọng gằn như chế nhạo. Có lúc nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tác giả thật tài tình so sánh với hình ảnh đàn trâu để nổi bật lên sự hùng vĩ của dòng sông, tiếng nước chảy như những tiếng gầm vang cả núi rừng. Sức mạnh hoang dại, vẻ đẹp kì vĩ và sự hung dữ của con sông qua góc nhìn và sự miêu tả tinh tế của Nguyễn Tuân.
Ngôn ngữ miêu tả đầy tính tạo hình, biện pháp so sánh, nhân hóa độc đáo.

Câu 3: Trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1
Cách viết của nhà văn đã thay đổi như thế nào khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như dòng chảy trữ tình?
Bài làm:
Con sông Đà không chỉ được Nguyễn Tuân đặc tả mang dáng vẻ hung dữ mà những nét, dáng dấp mềm mại, yên ả cũng được ông miêu tả rất thành công. Con sông dài như chính dòng nước: Con sông Đà dài như một sáng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Vẻ đẹp ấy được tác giả khắc họa hòa quyện giữa vẻ đẹp núi rừng với vẻ đẹp duyên dáng của con sông uốn lượn tạo nên bức tranh tuyệt mĩ.Nghệ thuật liên tưởng độc đáo: Sông Đà tuôn dài như áng tóc trữ tình của người thiếu nữ. Sông Đà được nhìn qua làn mây, qua ánh nắng với những sắc màu: Xuân: xanh màu xanh ngọc bích. Thu: lừ đừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sông Đà gắn bó thân thiết với con người như cố nhân. Bờ sông hoang dại, bình lặng như thời tiền sử – hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa – Dòng sông lặng lờ trôi.
Như vậy, sông Đà rất mực trữ tình hiền hoà. Sự tài hoa của ông đã mang đến những áng văn với bức tranh trữ tình đủ để lòng người say đắm, ngất ngây.


Câu 4: Trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1
Phân tích hình tượng người lái đò trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ. Từ đó hãy cắt nghĩa vì sao trong con mắt của Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người Tây bắc mới thật là vàng mười của đất nước ta?
Bài làm:
Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa, ông luôn đi tìm những cái khác người, những cái độc đáo. Đọc tùy bút, người lái đò sông Đà ta thấy được hết sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân trong việc khắc họa hình tượng người lái đò sông Đà. Chúng ta bắt gặp hình tượng con người lao động mới không chỉ thông minh, sáng tạo cần cù mà còn tài hoa nghệ sĩ.

Cuộc chiến thật không cân sức giữa một con người nhỏ bé không hề có phép màu gì kì diệu, không có vũ khí lợi hại trong tay chỉ với chiếc cán chèo trên một con đò đơn độc với một tên hung bạo của núi rừng (dòng sông hiểm trở khó lường), thạch trận đủ 3 lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và thật nham hiểm, dữ dội…

Người lái đò với tài năng và trí thông minh của mình vượt thác như cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp khác của trùng vi thạch trận, nắm chặt cái bờm sóng mà vượt qua, mà chinh phục sự hung hãn của dòng sông.

Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh lè.

Người lái đò là người chiến thắng trong trận chiến cam go ấy bằng sự ngoan cường, sung cảm. tài trí, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm lên thác xuống ghềnh của ông bao nhiêu năm nay, từng khúc từng đoạn sông ông nắm trong lòng bàn tay, ông biết chỗ nào là cửa sinh, chỗ nào là cửa tử và khéo léo xử lý như một nghệ nhân.

Nguyễn Tuân một nhà văn có tài ông khắc họa độc đáo những hình ảnh, từng cử chỉ nhân vật, thể hiện nét tài hoa nghệ sĩ của mình, thêm nữa ông tạo tình huống đầy thử thách để nhân vật của mình bộc lộ được phẩm chất. Nguyễn Tuân sử dụng ngông từ đầy cá tính, giàu chất tạo hình. Tất cả đã vẽ nên một khúc ca ca ngợi con người: ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi sự lao động là vinh quang. Đó là những vẻ đẹp của con người vùng Tây Bắc nói riêng và nhân dân lao động Việt Nam nói chung. Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.

Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.

Câu 5: Trang 192 sgk ngữ văn 12 tập 1
Chọn phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Bài làm:
Một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là:
Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì,..với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền.
Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tính, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc … nương xuân.
Bờ sông hoang dại … cổ tích tuổi xưa.

Với những câu văn trên đủ để tả có thể thấy được vẻ đẹp của con sông Đà – vẻ đẹp hung bạo nhưng cũn rất đỗi trữ tình. Nguyễn Tuân đã dùng những nhịp điệu nặng, ngôn từ mạnh để làm nên vẻ đẹp ấy. Nhưng nếu chỉ đơn giản là là những nhịp điệu nặng thì, nó quá đơn điệu, một nhà văn uyên bác như Nguyễn Tuân càng không thể để nó đơn thuần, đơn điệu. Chính vì thế nhà văn khi chuyển sang khẳng định con sông còn mang vẻ đẹp trừ tình đã dùng những nhịp điệu nhẹ nhàng, nhịp điệu duỗi- êm ả, ngân nga, nối dài liên tưởng, kiểu như: “Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tòc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.

Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ. Nguyễn Tuân đã “trồng” những câu văn dài, ngắn khác nhau.

Bút pháp này cũng tạo nên cái nhịp “khúc khuỷu” của văn xuôi Nguyễn Tuân. Vậy là có cả cái nhịp điệu thứ ba trong văn xuôi Nguyễn Tuân – “nhịp khúc khuỷu”? Những câu văn ngắn (5, 6, 7, 9, 11 chữ): “Con Sông Đà gợi cảm”, “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà”, “Mà tịnh không một bóng người”, “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”,“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử’, “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”,… Những câu văn ngắn chen giữa những câu văn dài (trên 40 chữ, dài nhất 47 chữ) tạo ra cái nhịp như ngựa phi (có thể gọi là “mã nhịp” chăng?), lúc nước kiệu, lúc nước đại. Khúc khuỷu và dồn dập. Văn Nguyễn Tuân vì thế năng động, khẩn trương nhưng không ồn ào, vội vã. Một lối văn khi đọc lên hối thúc tư duy. Ông biết khai thác tối ưu hiệu ứng âm thanh của tiếng Việt đơn âm tiết, nhưng lại đa thanh điệu, tạo cho câu văn giàu tính nhạc vang hưởng chất thơ

Nhà văn như nghệ sĩ xiếc ngôn từ. Ông nhại được giọng nhiều vùng miền khác nhau, huy động thích hợp thuật ngữ nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác phục vụ cho việc xây dựng hình tượng nghệ thuật văn chương và chuyển tải tư tưởng, tình cảm đến với bạn đọc, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ văn chương xứng đáng là bậc thầy ngôn ngữ của văn đàn hiện đại Việt Nam.

Luyện tập
Bài tập 1: trang 193 sgk Ngữ Văn 12 tập một

Tìm đọc trọn vẹn tùy bút Người lái đò sông Đà

Bài tập 2: trang 193 sgk Ngữ văn 12 tập một
Phân tích và phát biểu cảm nghĩ về một đoạn văn khiến anh (chị) cảm thấy yêu thích, say mê nhát trong thiên tùy bút.
Bài làm:
Đoạn văn tôi thích:[…] Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi tàu bay trên cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuồn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyen qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì đó mỗi độ thu về. Chưa bao giờ tôi thấy dòng sông Đà đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ […]

Đoạn văn phân tích và cảm nhận:
Từ trên cao nhìn xuống sông Đà như một sinh thể xuất hiện trong bức tranh gấm vóc của non sông “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một ánh tóc trữ tình, dầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Sông Đà qua đoạn chợ Bờ đã không còn những thác đá, những hút nước, những trùng vây thạch trận mà là một con sông Đà trữ tình, mềm mại như dáng hình của người thiếu nữ. Với ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, sông Đà được ví như một áng tóc lại được đặt trong một câu văn rất giàu chất thơ khiến cho ta liên tưởng tới dáng hình của người con gái trẻ trung, duyên dáng với sức sống rạo rực, xuân thì trong mây trời, sương khói của Tây Bắc – một hình ảnh tinh tứ, quyến rũ như dáng chảy trôi mềm mại của con sông.

Nhìn ngắm dòng sông Đà ở nhiều thời điểm, thời gian, không gian khác nhau, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của con sông để rồi ông nhận ra dòng nước biến đổi theo mùa giống như người thiếu nữ thay áo. Đó là “mùa xuân nước sông Đà xanh màu xanh ngọc Bích chứ không xanh màu xanh canh hến như sông Gâm, sông Lô”. Đó là sắc trong trẻo, tươi sáng, lấp lánh đáng quý của Đà giang và dường như ngay trong cách miêu tả về đặc sắc của màu nước ấy còn mang cá tính của cả một con sông, một sinh thể. Mùa thu nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”.

Đó là một so sánh đầy lí thú. Sông Đà trong thời tiết mùa thu lại được hình dung như tâm trạng của con người bất mãn, bực bội; màu sắc lại được ví như da mặt của người bầm đi vì rượu bữa. Ấn tượng đọng lại trong tâm trí người đọc là hình ảnh của một dòng sông màu mỡ, màu đỏ của phù sa phì nhiêu, là sự giàu có của sức sống mà con sông đang trở nặng để vun đắp cho hai bờ, cho quê hương, cho đất nước này. Tác giả cũng khẳng định chưa bao giờ sông Đà có màu đen như thực dân Pháp đã đưa vào bản đồ của mình để thể hiện tình yêu say đắm với con sông xứ sở và cả sự tôn vinh quê hương, đất nước.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Người lái đò sông Đà” số 5

Người lái đò Sông Đà thuộc thể văn tùy bút nhưng nặng về tính chất bút kí. Đây là thể văn có tính chất tư liệu cung cấp những tri thức chính xác về người thật, việc thật và cảnh thật. Đọc Người lái đò Sông Đà, chúng ta cảm nhận được những tri thức hết sức phong phú về địa hình, địa thế, về lịch sử của con người Sông Đà, về những con người đầy trí dũng, xứng đáng là nghệ sĩ tài ba trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh.

Đoạn trích này có hai nhân vật: con sông Đà và người lái đò trên sông này. Cả hai nhân vật đều có mối quan hệ mật thiết với nhau.

1. Sông Đà

Dưới ngòi bút của Nguyền Tuân, sông Đà không vô tri vô giác mà có tính cách, có tâm trạng và hoạt động. Nhà văn lưu ý hai đặc điểm chính của con sông là hung bạo và trữ tình. Trước tiên là tính hung bạo thể hiện ra ở cái diện mạo bên ngoài của con sông. Đó là những thúc đá, những cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành, dài hàng cây số nước xô đá, dá xô sóng, sóng xô gió, những hút nước ghê rợn, nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Để thể hiện sinh động và cụ thể tính cách này, đã sử dụng những cách ví von độc đáo, miêu tả gây cảm giác mạnh mẽ, đập vào giác quan người đọc. Đặc biệt trong đoạn miêu tả quãng Tà Mường Vát, nhà văn vận dụng cả tri thức của điện ảnh.

Để nêu bật thêm cái đáng sợ của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đặc tả con thác hung bạo như chặn đánh tiêu diệt người lái đò. Con sông ở đoạn này chẳng khác chi bầý thủy quái khống lồ vừa hung hăng vừa xảo quyệt, khi ẩn nấp mai phục, khi lừa miếng đánh du kích, khi quay vòng đánh quật trở lại theo lối vu hồi, khi khiêu khích, thách thức, chế nhạo, khi hò la gầm thét “như tiếng một ngàn con trâu mộng dang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”. Thành công của nhà văn ở đây là trí tưởng tượng tạo hình rất phong phú căn cứ ở sự thật được quan sát kĩ lưỡng, chính xác và sử dụng ngôn từ rất điêu luyện.

Bên cạnh tính hung bạo, Sông Đà lại mang tính cách trữ tình đầy chất thơ, thân thiết với con người. Tác giả hình dung con sông này như một người đàn bà kiều diễm “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo dốt nương xuân…”. Nguyễn Tuân say sưa nhìn ngắm Sông Đà từ nhiều thời điểm, nhiều không gian khác nhau và phát hiện được màu sắc của nó một cách tinh tế. Mùa xuân, dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu, nước sông “lừ lừ chín đỏ”.

Trong mắt nhà văn, Sông Đà chẳng khác gì một “cố nhân” khi xa thì gợi thương gợi nhớ. Con sông có chất thơ Đường cổ điển, có chất thơ hồn nhiên mơ mộng như “?nộí nỗi niềm cổ tícli”, có chất thơ tình tứ của Tản Đà gửi “người tình nhân chưa qụen biết”. Cảnh ven sông lặng lờ, tịnh không một bóng người hoang vắng nhưng đầy thi vị được Nguyễn Tuân thể hiện bằng một ngòi bút đằm thắm dịu dàng.

2. Người lái đò Sông Đà

Trên bức tranh Sông Đà, Nguyễn Tuân còn khắc họa sinh động hình tượng người lái đò như một người lao động đầy trí dũng có cốt cách như một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Đây cũng là một nhân vật chính luận của nhà văn – những con người tài hoa nghệ sĩ. Khái niệm tài hoa nghệ sĩ ở đây khá rộng: đó là những con người đã đạt tới trình độ nghệ thuật tinh vi điêu luyện trong nghề nghiệp của mình chứ không chỉ là những người làm nghệ thuật theo kiểu hiểu thông thường. Trong bài này người lái đò nghệ sĩ. Lái đò mà đạt đến một trình độ nghệ thuật cao cường đầy tài hoa; Nhà văn gọi là tay lái ra hoa.

Người lái đò Sông Đà ở đây đã nắm dược cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà. Bởi vậy, ông hoàn toàn làm chủ dược nó. Ông nắm chắc được từng luồng lạch, từng ngọn thác, từng nơi dựng vách đá, từng luồng lành luồng dữ… Nói chung, ông nắm rất vững quy luật biến đổi “tính tình phức tạp” – của con Sông Đà.

Để khắc họa sâu đậm tài nghệ củâ người lái đò, Nguyễn Tuân đã đặc tả cuộc chiến đâu giữa ông, một con người đầy trí dũng, với con thác dữ. ông vượt thác như là một viên tướng ngày xưa lao vào một trận đồ bát quái đã bày bố sẵn với rất nhiều cạm bẫy được giăng ra, hết vòng này đến vòng khác, mỗi vòng đều có những “viên tướng đá” nham hiểm và quái ác đang chực chờ để tiêu diệt đối phương. Nhằm áp đảo tinh thần “kẻ địch”, đám quân thác đá còn diễu võ dương oai, nổi trống nổi chiêng, hò la dữ dội… Đoạn văn “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới… Họ nghĩ thế lúc ngừng chèo” là đoạn văn vô cùng sinh dộng, giàu tình tiết dựng cảnh, đầy giá trị tạo hình, đầy kịch tính trong lối thuật kế, đặc biệt là mạch văn ở đây dồn dập chẳng khác gì dòng chảy của con sông.

Khi đã chinh phục được thác dữ của con sông cũng chả thấy ai bàn thêm một lài nào về cuộc chiến thắng vừa qua, nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Vì sao? Bởi vì những cuộc “chiến đấu” như thế đã diễn ra thường ngày trên dòng Sông Đà.

Gợi ý trả lời các câu hỏi hướng dẫn học bài

Câu 1

Sông Đà, tập bút kí đặc sắc trong đó có Người lái dò Sông Đà là thành quả nghệ thuật có được từ chuyến đi gian khố và hào hứng của nhà văn Nguyễn Tuân đển miền Tây Bấc rộng lớn. Ông đã không quản ngại khó khăn, cực khổ đã lặn lội dọc ngang trên vùng đất hiểm trở và thơ mộng ấy để “đi tìm cái thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tắt cả những con người ngày nay đang nhiệt tỉnh gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thèm sáng sủa tươi vui và vững bền”.

Đọc áng văn đẹp này với chất liệu thực tế ngồn ngộn đầy sinh động, chân thực, cụ thể đủ thấy nhà văn đã quan sát rất công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về Sông Đà và người lái đò Sông Đà.

Câu 2 và 3

Nguyễn Tuân đã phát hiện ra hai đặc điểm chính của Sông Đà là hung bạo và trữ tình. Nghĩa là Sông Đà hùng vĩ vừa dữ tợn, hiểm ác, gây hại cho mọi người nhưng cũng vừa thơ mộng, thân thiết với con người.

Lúc hung bạo, sông Đà như kẻ thù số một của con người với những vách đá dựng đứng cao vút, những hút nước ghê rợn, những thác nước dữ dội, chờ sẵn để nhấn chìm mọi con thuyền. Những thác nước đó luôn rông lên, lồng lộn tuôn phá, gầm gào…

Miêu tả những nét hung bạo ấy của Sông Đà, Nguyễn Tuân đã dùng lối so sánh độc đáo (nó rống lèn như tiếng một hgàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre…), cách cấu trúc câu trùng điệp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…) và phép nhân hóa xác hợp (mặt nước hò la vang dậy… ùa vào bẻ gẫy cán chèo, “sóng nước”, “sát nách” mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào hông thuyền, cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè…

Lúc trữ tình, Sông Đà lại dịu dàng, thơ mộng, gắn bó thân thiết với con người như một “cố nhân”, nếu phải chia xa thì dạt dào nhớ nhung lưu luyến. Miêu tả những nét trữ tình đó của Sông Đà, Nguyễn Tuân có cách liên tưởng bất ngờ (con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai…), dùng những hình ảnh dịu dàng trong sáng đầy thi vị (màu nắng tháng ba Đường thi, con hươu, tiếng còi sương, tiếng cá dập nước…). Ngoài ra nhà văn còn viết những- câu văn như thơ về mặt ý tưởng và thanh điệu. Nhà văn lại dùng chen càu thơ Tản Đà rất gợi tả dòng sông thân thiết của nhà thơ.

Câu 4

Trong tác phẩm, người lái đò Sông Đà được thể hiện như một người lao động đồng thời như một nghệ sĩ. ông bình tĩnh, ung dung đôi đầu với sự hung bạo và nham hiểm của ghềnh thác Sông Đà. Như một viên tướng già xung trận, người lái đò rất mực oai phong, tỉnh táo, tìm hiểu, nắm chắc đối phương ứng phó linh hoạt để giành phần thắng lợi.

Cái chết ngỡ như đã kề bên thế mà vượt thác xong, người nghệ sĩ tài hoa ấy đã “ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ và dường như quên ngay cuộc chiến dấu với thác ghềnh ban nãy”. Một chi tiết cần lưu ý nữa là hàng ngày, người lái đò vẫn buộc bu gà vào đuôi thuyền để nghe tiếng gáy cho “đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình”. Như thế, người lái đò ở đây vừa có tư thế vị anh hùng vừa có phong cách của một nghệ sĩ tài hoa tài tử.

Với sức tưởng tượng sáng tạo của Nguyễn Tuân, đoạn tả cuộc chiến đấu ác liệt giữa người lái đò và thác dữ đã hiện lên trước mắt người đọc như một trường đoạn phim sôi động, hấp dẫn và đầy kịch tính. Thác dữ như thể kẻ tử thù, như thể những con vật hung ác được nhà văn thể hiện sinh động bằng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa phong phú: rống lèn như tiếng ngàn con trâu mộng, rung tít lên như tuyếc bin thủy điện; Như thể quân liều mạng, dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh.

Trong khi đó, người lái đò như thể một viên tướng giả xông vào một trận đồ bát quái với muôn vàn cạm bẫy nham hiểm và quái ác. Đó không chỉ là một con người trí dũng tài nghệ tuyệt vời chinh phục được thác dữ của con sông mà còn là một nghệ sĩ tài hoa tài tử, một người lái đò đã đạt đến trình độ cao cường trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh mà tác giả gọi là “tay lái ra hoa”.

Câu 5

Học sinh có thế chọn và phân tích một số câu văn thể hiện rõ nhất nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Ví dụ đoạn viết về vẻ trữ tình của Sông Đà với những câu văn mềm mại, êm ả trải dài với những hình ảnh của áng tóc ẩn hiện trong mây, cái áng tóc trữ tình (…) ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Hay Sông Đà như một cố nhân trong nỗi niềm du khách. Như cái miếng sáng loé lên trong trò chiếu gương con trẻ, như một bờ tiền sử, như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Những cách so sánh đặc sắc, biến hoá, không trùng lặp ấy khiến người đọc phải sửng sốt trước vẻ đẹp trữ tình của một dòng sông và nhất là vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Người lái đò sông Đà” số 6

I- Tìm hiểu chung về bài Người lái đò sông Đà

1. Tác giả

Nguyễn Tuân là người cso ý thức cao về bản ngã. Ông luôn có ý thức in dấu ấn của cái tôi của mình vào trong đời sống, trong trang viết
Ông là người quý trọng nghề viết và có trách nhiệm với nghề
Ông là người rất tha thiết với nền văn học, cảnh sắc của đất nước
Nguyễn Tuân được mệnh danh là “người suốt đời đi tìm cái đẹp”


2. Tác phẩm

Người lái đò sông Đà rút từ tập “Sông Đà”
Tác phẩm được viết sau chuyến đi thực tế đến với Tây Bắc- miền đất giàu có nhưng còn hoang sơ


II- Soạn bài Người lái đò sông Đà

Câu 1 trang 192 SGK văn 12 tập 1:

Nguyễn Tuân đã quan sát công phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sông Đà và người lái đò sông Đà:

Sông Đà được Nguyễn Tuân cảm nhận với hai vẻ đẹp trái ngược nhau: hung bạo và trữ tình
Người lái đò sông Đà hiện lên như một mãnh tướng, một anh hùng sông nước đang chỉ huy trận mạc
Tác giả đã sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau để có những trang viết sinh động, tài hoa: điện ảnh, hội họa, quân sự…


Câu 2 trang 192 SGK văn 12 tập 1:

Những biện pháp nghệ thuật được dùng để khắc họa thật ấn tượng hình ảnh một con sông Đà hung bạo:

Nghệ thuật so sánh, liên tưởng độc đáo: cái hút nước, tiếng cửa cống cái bị sặc, tiếng thác, thạch trận
Sử dụng linh hoạt nhiều giác quan để miêu tả ấn tượng nhất
Các câu văn dài, giàu nhịp điệu
Biện pháp nhân hóa khiến con sông hiện lên như sinh thể sống có tâm hồn


Câu 3 trang 192 SGK văn 12 tập 1:

Cách viết của nhà văn đã thay đổi khi chuyển sang biểu hiện sông Đà như một dòng chảy trữ tình:

Tác giả dùng những hình ảnh giàu chất thơ, thấm đượm cảm xúc trữ tình
Nhịp văn chậm lại, lắng trong những cảm xúc, suy tưởng của nhà văn
Cái tôi trữ tình thể hiện niềm đắm say, tha thiết về một con sông với những vẻ đẹp nên thơ, trữ tình
Không chỉ nhìn con sông ở dáng vẻ bề ngoài, Nguyễn Tuân còn thấy được cả nét tâm hồn của nó


Câu 4 trang 192 SGK văn 12 tập 1:

Hình tượng người lái đò trong cuộc chiến đấu với con sông hung dữ:

Trong trận hỗn chiến gian lao, khi tương quan lực lượng quá chênh lệch với sóng thác sông Đà, ông đò đã dũng cảm, cố nén vết thương đau đớn, ngoan cường khéo léo đưa con thuyền vượt vòng vây thứ nhất của thạch trận trên sông Đà
Những động tác linh hoạt, uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi lái miết một đường chéo, khi tránh mà rảo bơi chèo, khi đè sấn lên mà chặt đôi…cho thấy những biện pháp kỳ diệu của một tay lái ra hoa- trí tuệ và tài hoa con người thậm chí đã chiến thắng cả thần sông và thần đá
Tài năng của ông đò bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường- tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kỳ diệu.
=> Giỏi giang, khéo léo, dũng cảm và mạnh mẽ, ông đò đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp tài hoa và trí dũng phi thường khi cùng thuyền vượt qua ghềnh thác, không bao giờ cho phép mình chùn bước, sợ hãi hay sai lầm, luôn có thể trình diễn nghệ thuật điêu luyện của tay lái ra hoa=> Con người Tây Bắc mới thật sự là chất vàng mười vì trên cái nền sông nước dữ dội, hiểm nguy, con người đã làm chủ được thiên nhiên, thể hiện tầm vóc lớn lao và những phẩm chất nổi bật, vừa cao cả vừa đời thường của mình

Câu 5 trang 193 SGK văn 12 tập 1:

Nét tài hoa về bút pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân:

“Bờ hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

=> Cách so sánh của NT đã không làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trìu tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ. Và chính trong tg ấy mà người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng tờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm

III- Luyện tập Người lái đò sông Đà

Câu 2 trang 193 SGK văn 12 tập 1:

“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói mèo đốt nương xuân”

=> . Sông Đà tuôn dài, tuôn dài…à vẻ đẹp trữ tình, nên thơ.Câu văn dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất kết hợp với điệp ngữ tuôn dài tuôn dài gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vỹ của vùng biên giới Tây Bắc. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn. Khi so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình , là nhà văn đã đem đến cho sông Đà nét mềm mại đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, nhưng lại không mất đi vẻ hùng vỹ, lớn lao của dòng sông. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân, có thể thấy sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng huyền ảo của mây trời, sắc tươi tắn rực rỡ của hoa ban hoa gạo tháng hai, và đặc biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của làn khói núi Mèo đốt nương xuân. Nghệ thuật nhân hóa được mở ra tuyệt đối làm người đọc dường như ko nhận ra đây là con sông nữa mà là một mỹ nhân đang làm duyên làm dáng với TB.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *