“Về luân lí xã hội ở nước ta” là đoạn trích trong phần ba của bài “Đạo đức và luân lí Đông Tây” được tác giả Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19/11/1925 tại … xem thêm…Hội Thanh niên ở Sài Gòn. Đoạn trích đã toát lên dũng khí của một người yêu nước: vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài soạn “Về luân lí xã hội ở nước ta” số 1
I. Về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Phan Châu Trinh (1872 – 1926),tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã, quê ở làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Nam Kì (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam).
Phan Châu Trinh luôn có ý thức dùng văn chương để làm cách mạng. Những áng văn chính luận của ông đậm tính chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép; những bài thơ của ông dạt dào cảm xúc về đất nước, đồng bào; tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ.
Các tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư (1906), Tỉnh hồn ca I, II (1907, 1922), Tây Hồ thi tập (1904 – 1914)…
2. Tác phẩm
Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoan trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây (gồm năm phần chính, kể cả nhập đề và kết luận), được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19 – 11 – 1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Tên bài cũng như các số thứ tự trong đoạn trích do người biên soạn đặt.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
* Đoạn trích gồm ba phần:
– Phần 1: Ở nước ta chưa có luân lí xã hội, mọi người chưa có ý niệm gì về luân lí xã hội. – Phần 2: So sánh luân lí xã hội ở châu Âu (Pháp) với nước ta.
– Phần 3: Chủ trương truyền bá Xã hội chủ nghĩa cho người Việt Nam.
=> Ba phần trên của bài liên hệ chặt chẽ với nhau theo mạch diễn giải: hiện trạng chung – biểu hiện cụ thể – giải pháp.
* Chủ đề tư tưởng của đoạn trích: cần phải truyền bá chủ nghĩa xã hội ở nước Việt Nam để gây dựng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng tới mục đích giành độc lập, tự do.
Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Tác giả vào đề bằng cách:
– Dùng cách nói phủ định: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều”.
– Tác giả còn phủ nhận, xuyên tạc vấn đề của không ít người, tác giả đã khẳng định: “Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì”.
→ Cách vào đề trực tiếp, thẳng thắn, bộc lộ quan điểm tư tưởng của một nhà Nho uyên bác thức thời.
Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Luân lí XH ở nước ta
Luân lí XH bên châu Âu
– Không hiểu, chưa hiểu, chẳng biết gì (thờ ơ, tê liệt)
– Dẫn chứng: Phải ai nấy hay, ai chết mặc ai, cháy nhà hàng xóm bình dân như vại, đèn nhà ai nhà ấy rạng, chỉ nghĩ đến sự yên ổn của riêng mình, bất công cũng cho qua.
– Nguyên nhân: người nước mình thiếu ý thức đoàn thể.
– Rất thịnh hành và phát triển
– Dẫn chứng: khi người có quyền thế, sức mạnh hoặc chính phủ cậy quyền thế, sức mạnh đè nén, áp bức quyền lợi riêng của cá nhân hay đoàn thể thì người ta tìm mọi cách để giành lại công bằng xã hội.
– Nguyên nhân: Có ý thức đoàn thể, sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ, tôn trọng quyền lợi của nhau.
Câu 4 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
* Nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không trọng công ích”:
– Nhân dân ta vốn có truyền thống cộng đồng, đoàn kết từ xa xưa.
+ Sử dụng thành ngữ, tục ngữ: nhiều tay vỗ nên bộp, không thể bẻ đũa cả nắm, góp gió làm bão, giụm cây làm rừng → tác động sâu sắc đến tình cảm và ý thức của người nghe.
– Ngày nay trơ trọi. lơ láo, sợ sệt:
+ Bọn học trò trong nước mắc bệnh ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối, nịnh hót, chỉ biết có nhà vua mà chẳng biết có dân. → Muốn giữ túi tham mình đầy mãi, địa vị mình được vững mãi bèn thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể quốc dân.
+ Gọi đích danh: kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, kẻ áo rộng khăn đen lức nhức lạy dưới…
+ Tội trạng của chúng: kết bè đảng, cậy quyền thế, tham nhũng, vơ vét của dân…
+ Tác giả sử dụng hình ảnh gợi tả, lối so sánh ví von, cấu trúc câu trùng điệp: “Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý!” → Tính hùng biện, đanh thép của lời văn diễn thuyết.
=> Thể hiện tinh thần phản phong mạnh mẽ của tác giả vừa phê phán nghiêm khắc, vừa đau lòng cần phải chỉ sự hèn kém của dân mình, nước mình → Kín đáo bày tỏ tấm lòng yêu nước.
Câu 5 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Bài văn có sự kết hợp giữa yếu tố nghị luận với yếu tố biểu cảm:
– Yếu tố nghị luận: cách luận lập chặt chẽ, logic, nêu dẫn chứng cụ thể, xác thực, giọng văn mạnh mẽ, hùng hồn.
– Yếu tố biểu cảm: câu cảm thán, câu mở rộng thành phần, những cụm từ chứa tình cảm đồng bào, tình cảm dân tộc sâu nặng, thắm thiết, lời văn nhẹ nhàng, từ tốn → tăng thêm sức thuyết phục, lay chuyển mạnh mẽ nhận thức và tình cảm của người nghe.
Luyện tập
Câu 1 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Tâm trạng của Phan Châu Trinh khi viết đoạn trích: căm ghét bọn quan lại phong kiến, thương xót đồng bào, lo lắng cho đất nước, hi vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Câu 2 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Tấm lòng của Phan Châu Trinh qua đoạn trích cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích:
– Đau đáu vì dân vì nước, xót thương và căm giận, phê phán và thức tỉnh.
– Tầm nhìn tiến bộ, xa rộng: kết hợp truyền bá tư tưởng XHCN, gây dựng tinh thần đoàn thể, với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho đất nước, cho dân tộc.
Câu 3 (trang 88 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):
Ý nghĩa thời sự trong chủ trương của Phan Châu Trinh:
– Vẫn còn ý nghĩa thời sự sâu sắc trong cuộc đổi mới xây dựng đất nước Việt Nam.
– Liên hệ chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, tiêu cực, vẫn cần hơn bao giờ hết việc nâng cao tinh thần dân chủ, công khai, đoàn kết.
Bài soạn “Về luân lí xã hội ở nước ta” số 2
I. Đôi nét về tác giả Phan Châu Trinh
– Phan Châu Trinh (1872 – 1926), tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã
– Ông thông minh từ bé, ngay từ tuổ thanh niến đã sớm có ý thức trách nhiệm đối với đất nước, học hành thi cử không phải để làm quan, cầu danh lợi mà là một cách giấu mặt anh hùng. Đỗ đạt làm quan một thời gian ngắn, ông từ quan đi làm cách mạng
– Tuy chủ trương cứu nước không thành nhưng nhiệt huyết cách mạng của ông đã ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào ái quốc đầu thế kỉ XX
– Các tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư, Tỉnh quốc hồn ca I,II, Tây Hồ thi tập, Giai nhân kì ngộ diễn ca, Thất điều trần, Đạo đức và luân lí Đông Tây,….
– Đặc điểm sáng tác: với ông văn chương là vũ khí để làm cách mạng
+ những áng văn chính luận luôn đậm tính chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép
+ những bài thơ của ông luôn dạt dào cảm xúc về đồng bào, đất nước
⇒ Tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ
II. Đôi nét về tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)
1. Xuất xứ
– Về luân lí xã hội ở nước ta là đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được tác giả diễn thuyết vào đêm 19/11/1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn
2. Bố cục
– Phần 1: khẳng định nước ta không ai biết luân lí xã hội
– Phần 2: sự thua kém về luân lí xã hội của nước ta so với phương Tây
– Phần 3: chủ trương truyền bá xã hội chủ nghĩa cho người Việt Nam
3. Giá trị nội dung
– Đoạn trích đã toát lên dũng khí của một người yêu nước: vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước
4. Giá trị nghệ thuật
– Phong cách chính luận độc đáo: lúc từ tốn, mềm mỏng, lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1 (trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Cấu trúc đoạn trích gồm 3 phần:
+ Ở nước ta chưa có luân lí xã hội, mọi người chưa có ý niệm gì về luân lí xã hội
+ Bên Âu châu, luân lí xã hội phát triển, nước ta không biết hợp sức giữ quyền lợi chung. Vua quan không muốn dân có tinh thần đoàn thể, dân nô lệ thì ngôi vua lâu dài, quan lại càng phú quý
+ Nước Việt Nam muốn được tự do, độc lập trước hết phải có đoàn thể lo công ích, mọi người lo cho lợi ích của nhau
– Ba phần liên hệ với nhau theo mạch diễn giải: hiện trạng chung, biểu hiện cụ thể, giải pháp nhằm hướng tới việc xây dựng tập thể đoàn kết, giành tự do, độc lập
Câu 2 (Trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Đối tượng: người nghe là toàn thể đồng bào (người nước mình, anh em, dân Việt Nam…)
– Tác giả đặt vấn đề thẳng thắn, trực tiếp, gây ấn tượng mạnh mẽ vấn đề: Việt Nam chưa có luân lí xã hội
– Để gạt đi sự ngộ nhận có thể có người nghe về sự hiểu biết của chính họ về vấn đề này, tác giả dùng cách nói phủ định: Xã hội luân lí trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều.
– Tác giả loại bỏ sự xuyên tạc không cần thiết: “Một tiếng bè bạn không thể thay thế cho luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì?”
→ Tư duy sắc sảo, nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh
Câu 3 (Trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Ý thức nghĩa vụ giữa người với người (là giữa người này với người kia, mỗi người mọi người, cá nhân cộng đồng)
– Tác giả so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên mình” về quan niệm, nguyên tắc cốt yếu của luân lí xã hội “ý thức giữa người với người”
+ Người với người: mối quan hệ xã hội, cộng đồng
+ Đề cao tính dân chủ của phương Tây (Xã hội châu Âu đề cao dân chủ, coi trọng bình đẳng con người, không chỉ quan tâm tới gia đình, quốc gia còn cả thế giới.)
+ Bên Pháp mỗi khi Chính phủ đè nén, lợi dụng quyền thế thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, thị oai, khi được công bình mới nghe
Nguyên nhân của hiện tượng: vì người ta có đoàn thể, có công đức (ý thức sẵn sàng làm việc chung, giúp đỡ lẫn nhau, tôn trọng quyền lợi của nhau
– Đối lập là bên mình:
+ Người nước ta không hiểu nghĩa vụ của loài người ăn ở với người” “Không biết nghĩa vụ của mỗi người trong nước với nhau
→ Nước ta thiếu tinh thần tập thể, đoàn kết với nhau
Câu 4 (trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Nguyên nhân:
– Lũ vua quan thối nát, phản động ham quyền, vinh hoa, muốn “giữ đầy túi tham” nên “phá tan tành đoàn thể quốc dân”
– Tác giả đả kích vào bản chất phản động, thối nát của vua quan
+ Không quan tâm chăm lo đời sống của dân
+ Muốn dân tối tăm, khốn khổ để chúng dễ thống trị, bóc lột
+ Bòn rút của dân để trở nên giàu sang, phú quí
+ Dân không có đoàn thể nên chúng mặc sức lộng hành mà không ai lên tiếng, phản kháng
+ Quan lại toàn chạy chức, quyền
– Tác giả dùng những từ ngữ, hình ảnh gợi tả, lối so sánh ví von sắc bén, thể hiện thái độ căm ghét với chế độ chuyên chế
+ bọn học trò, thượng lưu, kẻ mang đai đội mũ, kẻ áo rộng khăn đen, bọn quan lại, ngất ngưởng ngồi tin, lúc nhúc chạy dưới…
→ Thể hiện tấm lòng của một người tình yêu đất nước thiết tha, xót xa trước tình cảnh khốn khổ người dân, quan tâm tới vận mệnh dân tộc, căm ghét bọn quan lại xấu xa
Câu 5 (Trang 114 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Cách kết hợp yếu tố biểu cảm, yếu tố nghị luận:
– Yếu tố nghị luận thể hiện ở hệ thống luận điểm gắn với lí lẽ, dẫn chứng, tranh luận, bày tỏ chính kiến…
– Yếu tố biểu cảm: Câu cảm thán, câu hỏi tu từ, hình ảnh ví von… Yếu tố biểu cảm góp phần làm cho lí lẽ của bài diễn thuyết thêm sức sinh động
+ Người nghe cảm thấy tác giả không chỉ nói bằng lí trí tỉnh táo mà bằng trái tim hướng về dân tộc, đau xót thê thảm trước hiện trạng xã hội Việt Nam
LUYỆN TẬP
Bài 1 (trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
– Phần tiểu dẫn nói rõ Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, cải cách đổi mới dân tộc
– Bài diễn thuyết xây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, vạch trần sự xấu xa, thối nát của chế độ chuyên quyền
– Tâm trạng nói trong tâm trạng căm tức, phẫn nộ, xen với sự xót xa, lo lắng cho đất nước hi vọng tương lai tươi sáng
Bài 2 (trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
Cảm nhận tấm lòng Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này
– Thấm sâu là tấm lòng của một người có tình yêu đất nước tha thiết, quan tâm tới vận mệnh dân tộc, xót xa thương cảm trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân
– Căm ghét quan lại xấu xa, tham lam
– Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng
– Muốn có đoàn thể thì cần có tư tưởng mới, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, vì thế ông chủ trương truyền bá tư tưởng chủ nghĩa
Bài 3 (Trang 88 sgk ngữ văn 11 tập 2):
– Cảnh báo nguy cơ tiêu vong các quan hệ xã hội tốt đẹp do lũ người ham quyền, vinh hoa gây nên
– Khơi dậy niềm tin lo âu vì sự chậm tiến của đất nước
– Thức tỉnh tinh thần đoàn kết trong cộng đồng
Bài soạn “Về luân lí xã hội ở nước ta” số 3
Câu 1:
* Bố cục:
Đoạn trích có thể chia làm 3 phần:
– Đoạn 1 ( từ đầu …thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi ): tác giả khẳng định ở nước ta chưa hề có luân lí xã hội theo nghĩa đích thực, đúng đắn của nó.
– Đoạn 2 ( tiếp theo…Việt Nam ta không có cũng vì thế ): tác giả bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta. Từ đó đi sâu phân tích thực trạng Việt Nam và chỉ ra nguyên nhân vì sao mà trì trệ, bảo thủ, lạc hậu, yếu kém.
– Đoạn 3 (còn lại ): muốn nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết phải xây dựng nền luân lí xã hội, dân chủ đoàn thể, phải truyền bá CNXH trong dân.
* Chủ đề tư tưởng của đoạn trích:
Đoạn trích thể hiện tâm huyết và dũng khí của một người quan tâm đến vận mệnh đất nước: dám vạch trần thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX để dấy lên việc xây dựng một nền luân lí xã hội ở nước ta. Đồng thời, tác giả cũng đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ để hướng tới một ngày mai tươi sáng của đất nước.
Câu 2:
Phần 1: Để tránh sự hiểu lầm về khái niệm “luân lí xã hội”, tác giả đã đặt vấn đề trực tiếp, trực diện, nhấn mạnh và phủ định: “xã hội luân lí trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến”
+Tác giả khẳng định ở nước ta chưa hề có luân lí xã hội theo nghĩa đích thực, đúng đắn của nó
+ Luân lí xã hội không phải và không thể chỉ là tình cảm bạn bè. Nghĩa là, quan hệ bạn bè không thể thay cho luân lí xã hội mà chỉ là một bộ phận nhỏ, thậm chí rất nhỏ của luân lí xã hội mà thôi.
+ Luân lí xã hội cũng không phải là mấy chữ “bình thiên hạ” được nói đến của những nhà nho cổ hủ, lỗi thời mà không hề hiểu được bản chất của nguyên lí Khổng – Mạnh và nhất là không hành động gì để thực hiện mấy chữ đó. Thực ra, quan niệm Nho gia (tề gia trị quốc, bình thiên hạ) đã bị hiểu sai, hiểu lệch đi: bình thiên hạ là cai trị xã hội, là đè nén mọi người để đem lại quyền lợi cho cá nhân mình. Thật ra, bình thiên hạ (xã hội) là góp phần làm cho mọi người an cư lạc nghiệp, giàu có, hạnh phúc,…
=> Cách nêu vấn đề và phân tích luận điểm của tác giả bộc lộ quan niệm tư tưởng của một nhà Nho uyên bác, sắc sảo và thức thời.
Câu 3:
Tác giả so sánh luân lí xã hội giữa châu Âu, bên Pháp với nước ta: Luân lí xã hội theo quan niệm của Phan Châu Trinh là nghĩa vụ trong quan hệ cộng đồng xã hội, giữa người với người, nước này với nước khác (tầm thế giới) và ở trong một nước.
Tác giả đã so sánh luân lí xã hội giữa châu Âu, bên Pháp với nước ta:
+ Bên châu Âu, bên Pháp đã có nền luân lí xã hội:
– Bên châu Âu, cái XHCN rất thịnh hành và đã được phát triển rộng rãi.
– Bên Pháp, mỗi khi một người hay một hội nào bị đè nén quyền lợi riêng, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng được đến công bằng mới nghe.
– Dẫn chứng: khi người có quyền thế hoặc chính phủ, cậy quyền cậy thế để áp bức quyền lợi riêng của cá nhân hay đoàn thể thì người ta tìm mọi cách để giành lại sự công bằng xã hội.
– Nguyên nhân: vì người ta có đoàn thể, có ý thức sẵn sàng làm việc chung (công đức), có ăn học (văn hóa), biết nhìn xa trông rộng, biết giữ lợi chung, biết hợp nhau lại phòng ngừa trước, biết xét kĩ thấy xa và đặc biệt là có tinh thần dân chủ.
+ Bên mình chưa có nền luân lí xã hội:
– Dân chưa biết, chưa hiểu thế nào là luân lí xã hội. Họ điềm nhiên như ngủ, chẳng biết gì (thờ ơ, tê liệt). Thật đáng buồn và buồn đau xót biết bao trong khi bên châu Âu, nền luân lí xã hội rất thịnh hành như thế, mà người ta vẫn điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì.
– Dẫn chứng: người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai, không hề có sự quan tâm đến người khác, đồng loại: “Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp kẻ yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình.”
– Nguyên nhân: chưa có đoàn thể, ý thức dân chỉ kém.
Câu 4:
Ở đoạn cuối của phần 2, tác giả đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích mà không chút kiêng dè, né tránh. Đó là các nguyên nhân:
+ Bọn học trò trong nước ham quyền lợi, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh bợ, chỉ biết có vua mà không biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham của mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi nên đã tìm cách thiết lập luật pháp, phá tan đoàn thể của quốc dân.
+ Chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và lạc hậu. Nạn tham nhũng hoành hành, không ai bình phẩm, không ai chê bai. Quan lại thời xưa và nay là lũ ăn cướp có giấy phép.
+ Xu thế của xã hội cũng bén mùi làm quan, chạy theo chức tước và danh lợi để được ngồi trước, ăn trước, hống hách với mọi người.
+ Quan hệ giữa con người với nhau đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. Như vậy thì làm sao dân biết đến đoàn thể, trọng công ích được.
– Khi trình bày những nguyên nhân trên, tác giả đã kết hợp để đả kích mạnh mẽ và sâu sắc chế độ vua quan chuyên chế bấy giờ. Nhưng điều lưu lại đậm nét và lâu bền trong ta về cái chế độ vua quan xấu xa, trì trệ, bảo thủ ấy là hình ảnh có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong. Thật là mỉa mai châm biếm sâu cay.
Đồng thời, Phan Châu Trinh cũng thẳng thừng đả kích bọn quan lại một cách mạnh mẽ: “Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy! Luân lí của bọn thượng lưu […] nói cho anh em dễ hiểu mà thôi – ở nước ta là thế đấy!” Không căm ghét cái chế độ vua quan chuyên chế đến mức cao thì không thể viết nên những dòng đả kích có sức mạnh đến thế được.
Câu 5:
Cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích:
– Yếu tố nghị luận:
+ Cách lập luận chặt chẽ, lô gíc;
+ Chứng cứ cụ thể, xác thực;
+ Giọng văn sinh động, độc đáo: lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, hùng hồn, lúc nhẹ nhàng.
+ Dùng từ, đặt câu chính xác đạt hiệu quả nhận thức cao.
– Yếu tố biểu cảm: Sử dụng câu cảm thán; câu mở rộng thành phần, câu hỏi tu từ, hình ảnh ví von…
+ Cụm từ thể hiện tình đồng chí, đồng bào sâu nặng: người nước ta, người mình…
+ Lời văn nhẹ nhàng, từ tốn: “là vì người ta có đoàn thể”…
Tác giả đã phát biểu chính kiến của mình không chỉ bằng lí trí tỉnh táo mà còn bằng trái tim tràn trề cảm xúc, chan chứa niềm xót thương cùng nỗi đau về tình trạng đình trệ thê thảm của xã hội Việt.
=> lập luận có sức thuyết phục, tác động mạnh cả nhận thức và tình cảm của người nghe, người đọc.
Luyện tập
Bài tập 1:
Đoạn trích thể hiện tâm huyết và dũng khí của một người quan tâm đến vận mệnh đất nước: dám vạch trần thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam những năm 20 của thế kỉ XX để dấy lên việc xây dựng một nền luân lí xã hội ở nước ta. Ông là nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX với chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, hủy bỏ chế độ Nam triều, cải cách đổi mới mọi mặt (duy tân), làm cho dân giàu nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia. Tuy con đường đấu tranh ấy có phần ảo tưởng nhưng nhiệt huyết cứu nước của Phan Châu Trinh rất đáng khâm phục. Từ đó cho thấy một tâm trạng căm ghét bọn quan lại phong kiến, thương xót đồng bào, lo lắng cho đất nước, hi vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài tập 2:
Tác giả vừa đau xót vừa mỉa mai, vừa cảm thông với nỗi thống khổ của dân vừa châm biếm bọn quan lại phong kiến và chính quyền thực dân chỉ là bọn sâu mọt hại dân, hại nước.
Phan Châu Trinh thuộc ít nhiều những nhà cách mạnh nhìn ra chỗ yếu cốt lõi của nước ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông muốn giải quyết trước hết vấn đề dân trí, vấn đề ý thức dân chủ của người dân, xem đó là chuyện hệ trọng bậc nhất cần làm để hướng tới mục tiêu giành độc lập, tự do.
Bài tập 3:
Chủ trương gây dựng nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự:
– Tầm quan trọng của việc gây dựng đoàn thể vì sự tiến bộ, nhằm tạo nên ý thức trách nhiệm với cộng đồng, với tương lai đất nước.
– Nó cảnh báo nguy cơ tiêu vong những mối quan hệ tốt đẹp nếu còn những kẻ ích kỉ, ham quyền tước…
– Nó khơi dậy niềm âu lo về sự chậm tiến của một xã hội mà ở đó tinh thần dân chủ còn chưa được ý thức như một nhân tố thúc đẩy sự phát triển.
Bài soạn “Về luân lí xã hội ở nước ta” số 4
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
Phan Châu Trinh: (1872-1926) hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán. Ông là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Quê quán: làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hi Mã, tự là Tử Cán.
Sự nghiệp:
Năm 1901, đỗ Phó bảng làm quan một thời gian ngắn, rồi từ quan đi làm cách mạng.
Chủ trương cứu nước: lợi dụng Thực dân Pháp, cải cách đổi mới mọi mặt, làm cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia.
Năm 1908, bị bắt đầy đi Côn Đảo.
Năm 1925, đi diễn thuyết vài lần, sau đó ốm nặng rồi mất. Đám tang của ông trở thành một phong trào vận động ái quốc trong cả nước.
Dùng văn chương làm cách mạng:ánh văn chính luận lập luận chặt chẽ, đanh thép; thơ của ông dạt dào cảm xúc về quê hương đất nước,…
Tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư (1906), Tỉnh quốc hồn ca I,II (1907,1922), Tây Hồ thi tập (1904-1914),…
2. Tác phẩm
Đây là một đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây, được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào 19/11/1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn.
Luân lí xã hội ở nước ta tuyệt nhiên chưa có. Đó là vì người nước ta không biết cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người, không biết cái nghĩa vụ của mỗi người trong nước đối với nhau, dẫn đến tình trạng ai sống chết mặc ai, người này không biết quan tâm đến người khác. Đó là do thiếu ý thức đoàn thể, chưa biết giữ quyền lợi chung, chưa biết bênh vực nhau. Ý thức đoàn thể của dân ta xưa cũng đã có nhưng nay đã xa sút. Sở dĩ thiếu luân lí xã hội là do bọn vua quan chỉ biết quyền lợi ích kỷ của chúng, chỉ biết mua quan bán tước, dân càng nô lệ thì ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quí. Chúng chẳng qua là lũ ăn cướp có giấy phép. Nay nước Việt Nam muốn được tự do, độc lập thì trước hết phải tuyên truyền Xã hội Chủ nghĩa, phải có đoàn thể lo công ích, mọi người lo cho quyền lợi của nhau.
Tác phẩm toát lên dũng khí của một người yêu nước, vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng tới một ngày tươi sáng của đất nước.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần. Hãy nêu ý chính của từng phần và xác lập mối liên hệ giữa chúng. Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là gì?
Bài làm:
Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần:
Phần đầu: từ đầu…Cái chủ ý bình thiên hạ đã mất đi từ lâu rồi -> Khẳng định nhà nước ta không có luân lí xã hội
Phần hai: Tiếp…Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có cũng là vì thế -> Thực trạng đen tối của xã hội khi không có luân lí
Phần ba: Còn lại -> Truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam
Mối quan hệ giữa các phần: Tác giả đã đưa ra lời khẳng định nhà nước ta không có luân lí xã hội để người đọc có cái nhìn tổng quan, từ đó mới đưa các dẫn chứng, lí lẽ so sánh xã hội ta với các nước phát triển ở phương Tây để thấy được thực trạng đen tối của xã hội Việt Nam đương thời. Cuối cùng, đưa ra con đường, giải pháp để thoát khỏi cái hầm đen tối ấy.
Chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Đề cao tư tưởng đoàn thể (vì sự tiến bộ, tương lai tươi sáng của đất nước)
Câu 2: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề như thế nào để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội?
Bài làm:
Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã lựa chọn cách vào đề một cách trực tiếp, không vòng vo: khẳng định nước ta tuyệt nhiên không có luân lí xã hội.
Ông đã đưa ra các lập luận:
Phủ định một tiếng bạn bè không thể thay cho luân lí xã hội được
Đưa ra tư tưởng của Khổng – Mạnh “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” nhưng không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa bản chất của nó, thậm chí có kẻ còn xuyên tạc nguyên lí ấy.
Việc vào đề một cách trực tiếp để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội. Đồng thời cho ta thấy một sự kiên quyết, đanh thép đầy mạnh mẽ trong giọng điệu của tác giả.
Câu 3: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên ta” về điều gì?
Bài làm:
Trong phần 2, ở đoạn đầu tác giả đã so sánh bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên ta” về ý thức, nghĩa vụ của mỗi người trong nước
Cụ thể là:
Bên Âu Châu, bên Pháp: Người ta ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, mối quan hệ giữa người với người; dân chủ, tiến bộ, quyết đấu tranh tới cùng vì quyền lợi của con người
Dẫn chứng: “Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng đại ra như thế…”; “Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng kì cho đến được công bình mới nghe”
Bên ta: Không biết được nghĩa vụ của mình, không biết tự do dân chủ, không biết đấu tranh vì quyền lợi của cá nhân, thờ ơ, bàng quan giữa người với người
Dẫn chứng: “Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình”
Câu 4: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không trọng công ích” là gì? Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế ra sao?
Bài làm:
Tác giả đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không coi trọng công ích” là:
Bọn học trò trong nước ham quyền tước, vinh hoa của các triều vua mà giả dối, nịnh hót, chỉ biết vua mà không biết dân
Kiếm cách dựng nên pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân để giữ túi tham đầy mãi, địa vị được giữ vững
Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế là những kẻ ăn trên ngồi chốc, tham lam, đốn mạt, ra sức vơ vét, nhũng nhiễu dân thường; ông gọi đó là lũ ăn cướp có giấy phép
Một người làm quan cả nhà có phước, tham lam, quấy rối, vơ vét, rút tỉa của dân không ai dám bình phẩm
Lấy lúa của dân mua ruộng vườn, nhà cửa không ai chê bai
Người nhà dựa hơi quan nhũng nhiễu
Chen nhau vào chốn quan trường, ganh đua, nịnh hót
Những kẻ làm quan thì ngu ngốc, không có học thức, hiểu biết gì, làm quan dễ như mua mớ rau ngoài chợ
Tất cả những bằng chứng được tác giả đưa ra đều xác đáng, chính là hiện thực tối tăm của xã hội đương thời được phơi bày bằng một giọng điệu nghi luận biến đổi linh hoạt, lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục.
Câu 5: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Nhận xét về cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
Bài làm:
Tác giả đã kết hợp nhuẫn nhuyễn, khéo lẽo giữa yếu tố biểu cảm và yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
Yếu tố nghị luận là các lập luận, lí lẽ thể hiện tư tưởng, quan điểm của tác giả về luân lí xã hội của nước ta lúc bấy giờ.
Yếu tố biểu cảm biểu hiện qua các câu cảm thán, các câu than, câu nhận xét như Thương hại thay!, Thương ôi! Làng có một trăm dân mà…., Ôi! Một dân tộc như thế…
Ý nghĩa của việc kết hợp các yếu tố biểu cảm với nghị luận
Tạo ra sự linh hoạt trong giọng điệu nghị luận, tác giả không chỉ thể hiện quan điểm của mình bằng lí trí mà còn bằng tình cảm
Tăng sức thuyết phục cho bài nghị luận
Luyện tập
Bài tập 1: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Đọc lại Tiểu dẫn và hình dung hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích.
Bài làm:
Hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm:
Năm 1925, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam bắt đầu nổ ra và lan rộng. Phan Châu Trinh sang Pháp tìm cách thúc đẩy cải cách chính trị ở Đông Dương nhưng công việc không thành nên ông về nước, tuyên truyền và vận động thanh niên, trí thức và người yêu nước tại Sài Gòn bằng các bài diễn thuyết.
Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây (Gồm năm phần chính, kể cả phần nhập đề và kết luận), được diễn thuyết vào vào ngày 19/11/1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn
Tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích: căm ghét bọn vua tôi quan lại của triều đình phong kiến; xót xa khi chứng kiến thảm cảnh đau đớn của nhân dân ta trong xã hội hiện thực và khao khát có một sự thay đổi tích cực trong xã hội.
Bài tập 2: trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Có thể cảm nhận được gì về tấm lòng của Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này?
Bài làm:
Thông qua đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng của một con người yêu nước nồng nàn. Bản thân là một người học rộng, hiểu biết, khao khát cả đời của Phan Châu Trinh là cứu dân, cứu nước thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp. Khao khát ấy được bộc lộ ngay trong lập luận, tư tưởng của ông khi muốn cách tân đất nước, xây dựng một hệ thống luân lí xã hội. Ông có một tầm nhìn rất xa và một tư tưởng tiến bộ. Chứng kiến cảnh đất nước bị đô hộ, ngày càng trở nên xuống cấp, ông đã tìm được căn nguyên gốc rễ của sự đồi bại, nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không tôn trọng công ích. Bằng một phong cách chính luận độc đáo, với giọng điệu biến đổi linh hoạt, ông đã phơi bày thực trạng đen tối của xã hội, thể hiện nỗi căm ghét đến tận xương tủy bọn vua tôi, quan lại của chế độ phong kiến thối nát. Đồng thời ta cũng thấy được dũng khí của một người nam nhi đứng giữa thời cuộc rối ren, thật giả, trắng đen lẫn lộn và nỗi đau xót, thương cảm của ông với những người đồng bào của mình đang bị chà đạp, bóc lột, sách nhiễu
Bài tập 3: Trang 88 sgk Ngữ Văn 11 tập hai
Chủ trương gây dựng nên nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay có còn ý nghĩa thời sự không? Tại sao?
Bài làm:
Với một tư tưởng tiến bộ và tầm nhìn vượt thời, tư tưởng gây dựng nên nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự.
Bởi lẽ, về bản chất, nền luân lí xã hội ở Việt Nam mà Phan Châu Trinh mong muốn chính là một xã hội có công đức tức là ý thức sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác. Sự thực là xã hội hiện nay của ta đang cần một ý thức như thế bởi con người quá hẹp hòi, ích kỷ, nhỏ nhen chỉ biết đến lợi ích của mình mà không biết đến lợi ích chung của cả cộng đồng. Việt Nam là một nước có tỉ lệ người tốt nghiệp Đại học cao, số lượng Giáo sư, Tiến sĩ cũng nhiều, song lại là một trong những quốc gia không có đóng góp gì cho sự tiến bộ của loài người. Điều đó có nghĩa, chúng ta vẫn không biết được nghĩa vụ của con người với con người trong xã hội là gì, vẫn chỉ là danh tiếng và lợi ích cá nhân mà thôi.
Phần tham khảo mở rộng
Câu 1: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong ” Về luân lí xã hội ở nước ta “
Bài làm:
1. Giá trị nội dung
Đoạn trích đã toát lên dũng khí của một người yêu nước: vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng cuả đất nước. Cần phải gây dựng đoàn thể để giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Đồng thời ta phải xóa bỏ chế độ phong kiến đã thối nát để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của nó, nâng cao dân trí và ý thức dân chủ của người dân, hướng dân chúng tới mục tiêu giành độc lập tự do cho dân tộc
2. Giá trị nghệ thuật
Phong cách chính luận độc đáo: lúc từ tốn, mềm mỏng, lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng mà đầy sức thuyết phục
Bài soạn “Về luân lí xã hội ở nước ta” số 5
Câu 1. Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần. Hãy nêu ý chính của từng phần và xác lập mối liên hệ giữa chúng. Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là gì?
Trả lời:
* Bố cục của đoạn trích: 3 phần
– Đoạn 1 (từ đầu …thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi): tác giả khẳng định ở nước ta chưa hề có luân lí xã hội theo nghĩa đích thực, đúng đắn của nó.
– Đoạn 2 (tiếp theo…Việt Nam ta không có cũng vì thế): tác giả bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta.
– Đoạn 3 (còn lại ): Giải pháp
* Chủ đề tư tưởng của đoạn trích:
– Đoạn trích thể hiện tâm huyết và dũng khí của một người quan tâm đến vận mệnh đất nước. Đồng thời, tác giả cũng đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ để hướng tới một ngày mai tươi sáng của đất nước.
Câu 2. Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề như thế nào để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội.
Trả lời:
Bài này được Phan Châu Trinh trình bày trong buổi diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn vào đêm 19 – 11 – 1925 và tất nhiên đối tượng của bài diễn thuyết trước hết là những người nghe tại buổi diễn thuyết đó (sau đó mới là toàn thể đồng bào, “người nước mình”, “anh em”, “dân Việt Nam”,…). Chính bởi vậy mà có thể thấy rằng, cách đặt vấn đề của tác giả là khá thẳng thắn, gây ấn tượng mạnh cho người nghe. Vấn đề được trình bày và khẳng định là: ở Việt Nam chưa có luân lí xã hội.
Để đánh tan những ngộ nhận có thể có ở người nghe về sự hiểu biết của chính họ trên vấn đề này, tác giả dùng cách nói phủ định: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều”. Tiếp đó, lường trước khả năng hiểu đơn giản, thậm chí xuyên tạc vấn đề của không ít người, tác giả đã khẳng định: “Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì”.
Cách vào đề này cho thấy tư duy sắc sảo, nhạy bén của nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Câu 3. Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên ta” về điều gì?
Trả lời:
Tác giả đã so sánh luân lí xã hội giữa châu Âu, bên Pháp với nước ta:
+ Bên châu Âu, bên Pháp đã có nền luân lí xã hội:
– Bên châu Âu, cái XHCN rất thịnh hành và đã được phát triển rộng rãi.
– Bên Pháp, mỗi khi một người hay một hội nào bị đè nén quyền lợi riêng, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng được đến công bằng mới nghe.
+ Bên mình chưa có nền luân lí xã hội:
– Dân chưa biết, chưa hiểu thế nào là luân lí xã hội. Họ điềm nhiên như ngủ, chẳng biết gì (thờ ơ, tê liệt)
– Dẫn chứng: người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai, không hề có sự quan tâm đến người khác, đồng loại
– Nguyên nhân: chưa có đoàn thể, ý thức dân chỉ kém.
Câu 4. Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không trọng công ích” là gì? Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế ra sao?
Trả lời:
Ở đoạn cuối của phần 2, tác giả đã thẳng thắn chỉ ra nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích mà không chút kiêng dè, né tránh.
+ Bọn học trò trong nước ham quyền lợi, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh bợ, chỉ biết có vua mà không biết có dân.
+ Chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và lạc hậu. Nạn tham nhũng hoành hành, không ai bình phẩm, không ai chê bai. Quan lại thời xưa và nay là lũ ăn cướp có giấy phép.
+ Xu thế của xã hội cũng bén mùi làm quan, chạy theo chức tước và danh lợi để được ngồi trước, ăn trước, hống hách với mọi người.
Câu 5. Nhận xét về cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
Trả lời:
Cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích:
– Yếu tố nghị luận:
+ Cách lập luận chặt chẽ, lô-gíc;
+ Chứng cứ cụ thể, xác thực;
+ Giọng văn sinh động, độc đáo: lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, hùng hồn, lúc nhẹ nhàng.
+ Dùng từ, đặt câu chính xác đạt hiệu quả nhận thức cao.
– Yếu tố biểu cảm: Sử dụng câu cảm thán; câu mở rộng thành phần, câu hỏi tu từ, hình ảnh ví von…
+ Cụm từ thể hiện tình đồng chí, đồng bào sâu nặng: người nước ta, người mình…
+ Lời văn nhẹ nhàng, từ tốn:
=> lập luận có sức thuyết phục, tác động mạnh cả nhận thức và tình cảm của người nghe, người đọc.
LUYỆN TẬP
Câu 1. Đọc lại Tiểu dẫn và hình dung hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích.
Trả lời:
Phần Tiểu dẫn đã nói rõ Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, huỷ bỏ chế độ Nam triều, cải cách đổi mới (duy tân) mọi mặt làm cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia. Trong bài diễn thuyết này, cùng với việc thúc đẩy gây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, Phan Châu Trinh vạch trần sự xấu xa, thối nát của chế độ vua quan chuyên chế là nhằm mục đích ấy. Có thể hình dung tâm trạng Phan Châu Trinh khi viết đoạn trích này là căm ghét bọn quan lại phong kiến, thương xót đồng bào, lo lắng cho đất nước, hi vọng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Câu 2. Có thể cảm nhận được gì về tấm lòng Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này?
Trả lời:
Có thể cảm nhận ít nhiều được tấm lòng của Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này. Thấm sâu trong từng từ ngữ của đoạn trích là tấm lòng của một người có tình yêu đất nước thiết tha, quan tâm đến vận mệnh của dân tộc, xót xa thương cảm trước tình cảnh khốn khổ của nhân dân, hết sức căm ghét bọn quan lại xấu xa, thối nát.
Đoạn trích cũng cho thấy tầm nhìn xa rộng, sắc sảo của Phan Châu Trinh. Ông thấy được mối quan hệ mật thiết giữa truyền bá xã hội chủ nghĩa, gây dựng tinh thần đoàn thể với sự nghiệp giành tự do, độc lập. Tất nhiên, cái đích cuối cùng là giành độc lập, tự do nhưng lựa chọn bước đi phải tỉnh táo. Phan Châu Trinh nhận thấy sự thực dân trí nước ta quá thấp, ý thức đoàn thể của người dân rất kém (những điều gây trở ngại cho việc cứu nước), cho nên ông kêu gọi gây dựng đoàn thể (ý thức trách nhiệm với xã hội, quốc gia, dân tộc). Nhưng muốn có đoàn thể thì phải có tư tưởng mới, tư tưởng xã hội chủ nghĩa, vì thế phải “truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này”.
Câu 3*. Chủ trương gây dựng nên luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay còn có ý nghĩa thời sự không? Tại sao?
Trả lời:
Chủ trương gây dựng nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh cho đến ngày nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nó nhắc nhở về tầm quan trọng của việc gây dựng tinh thần đoàn thể vì sự tiến bộ, nhằm tạo nên ý thức trách nhiệm với cộng đồng, với tương lai đất nước của mọi người sống trong xã hội. Nó cũng cảnh báo nguy cơ tiêu vong các quan hệ xã hội tốt đẹp nếu vẫn còn những kẻ ích kỉ, “ham quyền tước, ham bả vinh hoa”, tìm cách vơ vét cho đầy túi tham mà không muốn ai bị lên án.
Bài soạn “Về luân lí xã hội ở nước ta” số 6
I. Tìm hiểu chung.
1. Tác giả: Phan Châu Trinh
– Phan Châu Trinh (1872 – 1926), tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã
– Ông thông minh từ bé, ngay từ tuổ thanh niến đã sớm có ý thức trách nhiệm đối với đất nước, học hành thi cử không phải để làm quan, cầu danh lợi mà là một cách giấu mặt anh hùng. Đỗ đạt làm quan một thời gian ngắn, ông từ quan đi làm cách mạng
– Tuy chủ trương cứu nước không thành nhưng nhiệt huyết cách mạng của ông đã ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào ái quốc đầu thế kỉ XX
– Các tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư, Tỉnh quốc hồn ca I,II, Tây Hồ thi tập, Giai nhân kì ngộ diễn ca, Thất điều trần, Đạo đức và luân lí Đông Tây,….
– Đặc điểm sáng tác: với ông văn chương là vũ khí để làm cách mạng
+ những áng văn chính luận luôn đậm tính chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép
+ những bài thơ của ông luôn dạt dào cảm xúc về đồng bào, đất nước
⇒ Tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân chủ
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ: Về luân lí xã hội ở nước ta là đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây được tác giả diễn thuyết vào đêm 19/11/1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn
– Bố cục:
+ Phần 1 ( từ đầu …thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi ): tác giả khẳng định ở nước ta chưa hề có luân lí xã hội theo nghĩa đích thực, đúng đắn của nó.+ Phần 2 ( tiếp theo…Việt Nam ta không có cũng vì thế ): tác giả bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta.+ Phần 3 (còn lại ): chủ trương truyền bá xã hội chủ nghĩa cho người Việt Nam
– Nội dung: Đoạn trích thể hiện tâm huyết và dũng khí của một người quan tâm đến vận mệnh đất nước. Đồng thời, tác giả cũng đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ để hướng tới một ngày mai tươi sáng của đất nước.
II. Đọc – hiểu văn bản:
Câu 1. Khẳng định nước ta không ai biết về luân lí.
– Phủ định tuyệt đối: Nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến xã hội luân lí
– Tác giả còn phủ nhận sự ngộ nhận, sự xuyên tạc vấn đề của không ít người:
+ Một tiếng bạn bè không thể thay cho xã hội luân lí được…+ Những người học ra làm quan thường nhắc câu: Tề gia trị quốc, bình thiên hạ nhưng mấy ai hiểu đúng bản chất của vấn đề bình thiên hạ
– Sự sống động trong tư duy, sự nhạy cảm trong quan hệ giao tiếp của tác giả thể hiện ở phần đầu đã khẳng định uy lực lời nói, tạo ấn tượng mạnh mẽ
⇒ Vào vấn đề trực tiếp, gây ấn tượng cho người nghe
Câu 2. Sự thua kém về luân lí xã hội ở nước ta so với các nước phương Tây.
– Hai đoạn đầu tác giả đã so sánh bên châu Âu, bên Pháp với bên ta về những điều:
+ Ý thức nghĩa vụ giữa người với người:
• Ở Pháp khi quyền lợi riêng của một người, một hội bị đè nén thì người ta đấu tranh đòi cho được sự công bằng
• Ở ta: ai bị họa người đó chịu người khác không quan tâm
• Ở phương Tây người ta có đoàn thể có công đức còn ở ta từ hồi cổ sơ ông cha mình cũng đã biết đoàn thể, công ích nhưng mấy trăm năm gần đây trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì không biết đoàn thể công ích là gì
– Ở các đoạn sau tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là vì sự thối nát, phản động của đám quan trường:
+ Ham quyền tước, ham vinh hoa.+ Tham nhũng+ Từ quan lớn đến quan bé, bọn nho học, bọn tây học tất cả đều là lũ ăn cướp có giấy phép
– Điều đáng nói là dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phê bình, không ai khen chê, không ai khinh bỉ. Ai cũng an phận, cam chịu, không dám đấu tranh
Câu 3. Chủ trương truyền bá xã hội chủ nghĩa cho người Việt.
– Phải biết gây dựng đoàn thể để tự bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ nhau trong cuộc sống– Phải bỏ thói dựa dẫm vào quyền thế, chấm dứt tệ nạn mua danh bán tước– Phải lật đổ chế độ phong kiến thối nát làm bại hoại luân lí xã hội– Phải nâng cao dân trí và ý thức của người dân, hướng dân chúng tới mục tiêu giành độc lập, tự do cho dân tộc– Phải gây dựng đoàn thể, tuyên truyền ý thức công dân, kêu gọi đoàn kết..
Câu 4. Nghệ thuật:
– Lập luận chặt chẽ, xúc cảm chân thành, nồng nhiệt của tác giả tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ.
– Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và suy nghĩa sắc sảo tiến bộ của tác giả.
– Vận dụng linh hoạt yếu tố biểu cảm : câu cảm thán, câu hỏi tu từ, hình ảnh ví von,… làm cho lí lẽ của bài diễn thuyết tăng sức thuyết phục.
III. Luyện tập:
Câu 1 (trang 88 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
– Tác giả vừa đau xót vừa mỉa mai, vừa cảm thông với nỗi thống khổ của dân vừa châm biếm bọn quan lại phong kiến và chính quyền thực dân chỉ là bọn sâu mọt hại dân, hại nước.
– Ông là nhà yêu nước và cách mạng lớn của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX với chủ trương cứu nước bằng cách lợi dụng thực dân Pháp, hủy bỏ chế độ Nam triều, cải cách đổi mới mọi mặt (duy tân), làm cho dân giàu nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia.
Câu 2 (trang 88 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Phan Châu Trinh thuộc ít nhiều những nhà cách mạng nhìn ra chỗ yếu cốt lõi của nước ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông muốn giải quyết trước hết vấn đề dân trí, vấn đề ý thức dân chủ của người dân, xem đó là chuyện hệ trọng bậc nhất cần làm để hướng tới mục tiêu giành độc lập, tự do.
Câu 3 (trang 88 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Chủ trương gây dựng nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự:
– Tầm quan trọng của việc gây dựng đoàn thể vì sự tiến bộ
– Nó cảnh báo nguy cơ tiêu vong những mối quan hệ tốt đẹp nếu còn những kẻ ích kỉ, ham quyền tước…
– Nó khơi dậy niềm âu lo về sự chậm tiến của một xã hội mà ở đó tinh thần dân chủ còn chưa được ý thức như một nhân tố thúc đẩy sự phát triển.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.