Top 6 Bài soạn “Thuốc” của Lỗ Tấn lớp 12 hay nhất

Truyện ngắn “Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn rút từ tập “Gào thét” sáng tác năm 1919. Truyện phơi bày tình trạng ngu muội, vô cảm của người dân Trung Quốc trước Cách … xem thêm…mạng Tân Hợi (1911) và thể hiện lòng khâm phục, xót thương đối với nhà cách mạng đã hi sinh đồng thời thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được bệnh tật của chính mình chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng thì dân tộc đó vẫn còn chìm đắm trong mê muội. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Thuốc” hay nhất đã được Blogthoca.edu.vn tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Thuốc” số 1

I. Đôi nét về tác giả Lỗ Tấn

– Lỗ Tấn sinh năm 1881, mất năm 1936, tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân, là nhà văn cách mạng Trung Quốc
– Quê quán: phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đông Nam Trung Quốc
– Năm 13 tuổi, ông chứng kiến cảnh người cha lâm bệnh, vì không có thuốc mà chết, ông ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc Ông chọn nghề y để chữa bệnh cho người nghèo, ốm mà không có thuốc, chết vì ngu dốt và mê tín… như cha mình.
– Ông đổi chí hướng nhân một lần ông xem phim thấy những người Trung Quốc hăm hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho Nga. Ông giật mình nhận ra rằng: “chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần. Ông chuyển sang làm văn nghệ.
– Quan điểm sáng tác: dùng ngòi bút để phanh phui các căn bệnh tinh thần của quốc dân, lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa. Ông đã hát cho đồng bào mình nghe bài hát lạc điệu của chính họ, chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên con đường tiến về tương lai. Các tác phẩm của ông đều tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội tự thỏa mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”. Chủ đề phê phán quốc dân tính trong sáng tác của ông trở nên thấm thía, sâu sắc.
– Các tác phẩm chính: AQ chính truyện (kiệt tác vhọc TQ và thế giới), tập Gào thét, Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, hơn chục tạp văn có giá trị phê phán, chiến đấu cao.

II. Đôi nét về tác phẩm Thuốc
1. Hoàn cảnh ra đời

– Truyện ngắn thuốc rút từ tập “Gào thét”
– Truyện được sáng tác năm 1919, trong bối cảnh nhân dân Trung Quốc chìm đắm trong mê muội, lạc hậu còn những người làm cách mạng thì hoàn toàn xa lạ với người dân và Lỗ Tấn muốn người dân Trung Hoa nghiêm túc suy nghĩ để tìm ra phương thức chữa trị

2. Tóm tắt
Một đêm thu gần về sáng, theo lời bác Cả Khang, lão Hoa trở dậy đi đến pháp trường để mua “thuốc” chữa bệnh cho thằng Thuyên – con trai lão, đang bị mắc bệnh lao. Bị chém hôm đó ở pháp trường là Hạ Du, một người làm cách mạng, do bị cụ Ba tố giác cháu với chính quyền để kiếm hai mươi lạng bạc mà bị bắt và hành hình. Nghe mọi người kể lại trong quán trà của gia đình lão Hoa, vào trong ngục, Hạ Du vẫn không sợ chết, còn dám cả gan rủ cả lão Nghĩa “làm giặc”. Mặc dù được chữa bằng bánh bao tẩm máu người nhưng cuối cùng thằng Thuyên vẫn không khỏi. Một buổi sớm mùa xuân, trong tiết thanh minh, tại nghĩa địa mẹ của Thuyên và mẹ của Hạ Du đều đến thăm mộ con. Hai người rất ngạc nhiên, băn khoăn tự hỏi “Thế này là thế nào?” khi nhìn thấy một vòng hoa đặt trên mộ người cách mạng. Bà mẹ của Thuyên đã bước qua con đường mòn cố hữu ngăn cách giữa nghĩa địa của người chết nghèo và nghĩa địa của người chết chém hoặc chết tù để sang an ủi mẹ Hạ Du.

3. Bố cục (4 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “Cổ…Đình Khẩu”): Đêm thu gần sáng, lão Hoa đi mua thuốc về chữa bệnh cho con
– Phần 2 (tiếp đó đến “đắp cho con”): Cảnh vợ chồng lão Hoa cho con uống thuốc
– Phần 3 (tiếp đó đến “Điên thật rồi”): cuộc bàn luận trong quán trà về phương thuốc chữa bệnh lao và về Hạ Du
– Phần 4 (còn lại): cảnh hai bà mẹ viếng mộ con

4. Giá trị nội dung
– Lỗ Tấn được tôn vinh là “linh hồn dân tộc” vì nhà văn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà bằng hộp sắt”, còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.
– Truyện phơi bày tình trạng ngu muội, vô cảm của người dân Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi (1911) và thể hiện lòng khâm phục, xót thương đối với nhà cách mạng đã hi sinh
– Truyện ngắn Thuốc đã thể hiện một nội dung sâu sắc: một dân tộc chưa ý thức được bệnh tật của chính mình chưa có được ánh sáng tư tưởng cách mạng thì dân tộc đó vẫn còn chìm đắm trong mê muội

5. Giá trị nghệ thuật
– Cốt truyện đơn giản, cách viết cô đọng, súc tích
– Hình ảnh mang tính biểu tượng, chi tiết nghệ thuật đặc sắc, giàu ý nghĩa

Câu 1 (trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Hình tượng chiếc bánh bao trong truyện có hai nghĩa:

– Nghĩa thực: là phương thức thuốc chữa bệnh, độc hại, gợi liên tưởng tới việc ăn thịt người

– Chiếc bánh bao là biểu tượng cho sự u mê, thiếu hiểu biết, mê tín, dị đoan của những người Trung Quốc giai đoạn đó

Câu 2 (trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Hình tượng của người tù cách mạng Hạ Du:

– Hạ Du là chiến sĩ cách mạng, khi trong tù thì không ai biết đến

+ Người anh hùng sớm được giác ngộ lí tưởng cách mạng, tới khi bị xử tử hình vẫn không làm cho căn bệnh u mê của người dân được đẩy lùi

– Con trai lão Hoa dù được ăn chiếc bánh nhưng vẫn không khỏi bệnh nhưng không qua khỏi

– Hạ Du không được miêu tả trực tiếp, chỉ là những chi tiết được gợi lên trong lời kể của của một số người trong quán trà lão Hoa

– Họ bàn tới cả công hiệu của chiếc bánh bao tẩm máu người

– Qua lời bàn tán Lỗ Tấn cho thấy thái độ ca ngợi, trân trọng đối với Hạ Du (trái ngược với đám đông phê phán)

+ Tác giả cho thấy sự lạc hậu của người dân Trung Quốc

+ Lòng yêu nước còn nhưng xa rời quần chúng ( bị chú ruột tố giác, mẹ xấu hổ, đao phủ dùng máu trục lợi, bị miệt thị

Câu 3 (trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Không gian nghệ thuật trong truyện:

– Câu chuyện diễn ra trong hai buổi sớm của hai mùa

+ Buổi sáng đầu tiên có ba cảnh: cảnh sớm tinh mơ, trời còn tối, lão Hoa đi mua bánh bao chấm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh

+ Ba cảnh liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố là nơi đông người nên hình dung được dư luận, ý thức xã hội

+ Buổi sáng cuối cùng – tết thanh minh- mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc, gieo mầm

– Ý nghĩa hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du:

+ Vòng hoa là hình ảnh cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”

+ Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du, chủ đề tư tưởng được thể hiện trọn vẹn hơn, không khí của truyện vốn u buồn, tăm tối

+ Chi tiết này còn thể hiện sự đổi mới trong tư tưởng của người dân Trung Quốc, khiến câu chuyện bớt bi quan

Luyện tập

Bài 1 (trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Ý nghĩa chi tiết người chết chém bên trái, nghĩa địa người chết bệnh, chết nghèo bên phải, chia cắt bởi một con đường mòn

+ Quan điểm lạc hậu của người dân đương thời, Lỗ Tấn bàn tới cũng chính là căn bệnh quốc dân của người Trung Quốc

+ Con đường thể hiện sự lạc hậu trong nhận thức, sự phân chia giai cấp của xã hội

+ Con đường cũng là ranh giới thể hiện thái độ, tình cảm của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ

Bài 2 (trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Câu hỏi của bà mẹ trước vòng hoa trên nấm mộ “ thế này là thế nào?” có ý nghĩa:

+ Thể hiện sự ngạc nhiên, bàng hoàng xen với sự xót xa trước cái chết của con

+ Cũng hàm chứa niềm vui vì có người hiểu con mình, chút hi vọng le lói xã hội Trung Hoa sẽ thay đổi

+ Điều đó chứng tỏ đã có sự biểu hiện của sự giác ngộ trong số những người dân địa phương

+ Niềm hi vọng của sự hi sinh bất tử con người Cách Mạng.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Thuốc” số 2

Câu 1 (trang 111 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

* Ý nghĩa hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người:

– Nghĩa thực: là một vị thuốc “thần” để cứu người, một phương thuốc cổ hủ, quái đản người của những kẻ mê tín dị đoan dùng chữa bệnh lao

– Nghĩa biểu tượng:

+ “Chiếc bánh bao tẩm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt” để gợi nhắc về bệnh u mê, lạc hậu của quần chúng và bi kịch của những chiến sĩ cách mạng tiên phong.

+ Hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người còn là tư tưởng và con đường đi sai lầm của những người làm cách mạng.

=> Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một vấn đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh. Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng.


Câu 2 (trang 111 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

* Hình tượng người cách mạng Hạ Du:

– Nhà nghèo, chỉ có một mẹ già.

– Trong nhà lao tử tù: vẫn hiên ngang tuyên truyền cách mạng chống nhà Mãn Thanh.

=> Hạ Du: người chiến sĩ tiên phong dám xả thân vì lí tưởng cách mạng, trung thành với lí tưởng đến chết dù bị hiểu lầm, bị tra tấn, bị hành hình.

=>Qua tác phẩm, nhà văn tỏ ý trân trọng, kính phục nhân cách của người cách mạng Hạ Du nhưng cũng ngầm phê phán Hạ Du xa rời quần chúng.

* Qua cuộc bàn luận trong quán trà về Hạ Du, Lỗ Tấn đã cho thấy:

Lỗ Tấn vừa nhắc nhở vừa nghiêm khắc phê phán những người làm cách mạng thời kì ấy đã mắc bệnh xa rời quần chúng, không giác ngộ được tư tưởng cho quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ dấn đến thất bại.


Câu 3 (trang 111 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

* Ý nghĩa của hình ảnh vòng hoa:

– Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du: “Vòng hoa nhỏ, được xếp khum khum, có hoa trắng, hoa hồng đan xen với nhau. Hoa hồng không có gốc, không phải từ dưới đất mọc lên”

– Hé mở đã có người thấu hiểu lí tưởng của Hạ Du, tri ân và tưởng nhớ đến anh; dấu hiệu lạc quan về con đường của cách mạng ở phía trước.

– Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng, tiếc thương đối với người chiến sĩ cách mạng tiên phong đồng thời cũng thể hiện niềm tin tưởng lạc quan vào cách mạng Trung Quốc trong tương lai.

– Hình ảnh vòng hoa là hình ảnh đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Lỗ Tấn phủ định cách chữa bệnh bằng bánh bao tẩm máu người là phương thức sai lầm. Tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới – chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.

Luyện tập

Câu 1 (trang 111 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

* Ý nghĩa của những chi tiết:

– Chi tiết: nghĩa địa người chết chém bên trái, nghĩa địa người chết bệnh, chết nghèo bên phải thể hiện sự phân biệt đối xử, kì thị

– Hình ảnh con đường mòn ở giữa là hình ảnh biểu tượng cho những tư tưởng cũ, tập quán lạc hậu, lối sống u mê => cần phải xóa bỏ

Câu 2 (trang 111 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

– Câu nói của bà mẹ trước vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du: “Thế này là thế nào?” vừa thể hiện sự ngạc nhiên, bàng hoàng, sửng sốt, xót xa cho nỗi oan khuất trong cái chết của con mình vừa ẩn giấu một niềm vui vì có người hiểu con mình. Hiện tượng đó cho thấy đã có biểu hiện của sự giác ngộ trong số những người dân địa phương, và hứa hẹn sự giác ngộ cho mọi người trong một ngày không xa.

– Qua câu hỏi ấy, tác giả cũng muốn loé lên một tia hi vọng đối với sự hi sinh bất tử của người cách mạng.


Tóm tắt

Vợ chồng lão Hoa, chủ một quán trà, có thằng con trai tên Thuyên bị bệnh lao rất nặng. Được lão Cả Khang mách, vợ chồng lão Hoa dốc tiền đến Cổ Đình Khẩu từ mờ sáng để mua chiếc bánh bao tẩm máu người vừa bị hành hình đem về cho con ăn. Buổi sáng, khi thằng Thuyên ăn chiếc bánh tẩm máu người rồi đi nghỉ thì quán trà cũng dần đông khách, mọi người râm ran khẳng định thằng Thuyên sẽ khỏi bệnh rồi bàn tán về Hạ Du, người chiến sĩ vừa bị hành hình lúc sáng sớm. Ai nấy đều cho Hạ Du là “thằng khốn nạn”, “thằng nhãi con” và “điên thật rồi”. Cuối cùng, chiếc bánh tẩm máu người cũng không cứu được thằng Thuyên. Một ngày vào tiết Thanh minh, bà Hoa buồn rầu ra thăm mộ con nhìn thấy mẹ Hạ Du cũng đến viếng mộ. Đồng cảnh ngộ mất con, bà Hoa bước qua con đường mòn sang an ủi mẹ Hạ Du, cả hai cùng ngạc nhiên trước vòng hoa đặt trên mộ “Thế là thế nào nhỉ?”. Truyện kết thúc với tiếng quạ kêu và hình ảnh con quạ nhún mình bay vút về phía trời xa.

Bố cục

Bố cục (4 phần)

– Phần 1 (Mua thuốc): Thuyên mắc bệnh lao, được lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu người cộng sản về cho ăn

– Phần 2 (Ăn thuốc): Thuyên ăn bánh bao đẫm máu nhưng vẫn ho dữ dội.

– Phần 3 (Bàn về thuốc): Cuộc bàn luận trong quán trà về thuốc chữa bệnh lao và tên “giặc” hạ du.

– Phần 4 (Hậu quả của thuốc): Nghĩa địa vào tiết Thanh minh, mẹ của Hạ Du và Thuyên bắt gặp nhau và bàng hoàng khi thấy vòng hoa trên mộ Hạ Du.

Nội dung chính

Thuốc là hồi chuông cảnh báo căn bệnh mê muội của người Trung Hoa đầu thế kỉ XX; nhà văn bày tỏ niềm tin vào tương lai: nhân dân sẽ thức tỉnh, hiểu cách mạng và dấn bước theo cách mạng.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Thuốc” số 3

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên khai sinh là Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tại, bút danh là Lỗ Tấn. Ông sinh ra ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang trong một gia đình quan lại sa sút. Ông thân sinh ra Lỗ Tấn từng đỗ tú tài. Năm Lỗ Tấn 13 tuổi, ông bỗng nhiên lâm bệnh, sau đó, vì không có tiền chạy chữa mà mất. Lỗ Tấn ôm mộng học nghề y từ đấy.

Trước khi học nghề thuốc, Lỗ Tấn từng học nghề hàng hải với mong muốn được đi đây đó để mở mang tầm mắt. Rồi ông lại học nghề khai mỏ với ước vọng góp phần làm giàu cho Tổ quốc. Nhưng đều thất vọng.

Chọn nghề y và được sang Nhật học, Lỗ Tấn mong muốn có thể chữa chạy cho những người nghèo ốm, không có tiền chữa như bố ông. Nhưng khi đang học ở Nhật, trong một lần đi xem phim, ông thấy những người Trung Quốc hăm hở đi xem người Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho quân Nga, ông bỗng thấy chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Ông bỏ nghề y và chuyển sang làm văn nghệ từ đó.

Làm văn nghệ, Lỗ Tấn đã chủ trương dùng ngòi bút của mình phanh phui các căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa. Ông đã dũng cảm chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên con đường hành quân tiến vào tương lai.

Tác phẩm chính: các tập truyện ngắn Gào thét, Bàng hoàng, Chuyện cũ viết lại; các tập tạp vãn: Nấm mồ, cỏ dại, Gió nóng, Hai lòng, …

2. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Trung Quốc bị các nước đế quốc xâu xé. Xã hội Trung Hoa biến thành nửa phong kiến nửa thuộc địa, thế nhưng nhân dân lại an phận chịu nhục. Đó là căn bệnh đớn hèn, tự thoả mãn, cản trở nghiêm trọng con đường giải phóng dân tộc. Thuốc ra đời đúng vào hoàn cảnh ấy như một lời cảnh tỉnh những ai còn đang ngơ ngác trước thời cuộc, chỉ ra cho họ thấy rằng Trung Quốc đang như một con bệnh trầm kha chỉ có tiêu diệt hết thứ vi rút đớn hèn mới có cơ hội cứu được con bệnh thập tử nhất sinh ấy.

Lỗ Tấn viết Thuốc ngày 25 – 4 – 1919, rồi đăng trên tạp chí Tân thanh niên đúng vào dịp phong trào Ngũ tứ nổ ra.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN

Câu 1. Chiếc bánh bao tẩm máu người trong truyện được những người đao phủ làm ngay sau khi khai đao xử tử kẻ tử tù. Và người ta dùng nó để chữa bệnh lao: con bệnh ăn chiếc bánh bao tẩm máu người ấy. Chiếc bánh bao tẩm máu người trở thành một liều thuốc. Nhưng đó là một liều thuốc độc hại, bởi nó gợi đến suy tưởng về lịch sử Trung Quốc mấy nghìn năm là lịch sử “nhân nhục nhân” – người ăn thịt người! Và vì thế, hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người trở thành biểu tượng cho sự u mê, tăm tối vì mê tín, dị đoan của những người dân Trung Quốc xưa.


Câu 2. Hạ Du là một nhà cách mạng có nghĩa khí, có tư tưởng cách mạng tiến bộ, chiến đấu vì nhân dân lao động. Nhưng trong cuộc bàn luận trong quán trà, những người nông dân Trung Quốc lại lên án Hạ Du, coi Hạ Du như một thứ giặc cỏ rác. Hành động của những người nông dân Trung Quốc cho thấy họ chưa được giác ngộ về cách mạng, chưa hiểu hết về những người như Hạ Du. Và vì thế, họ chưa ủng hộ cách mạng, cái chết của Hạ Du dường như có điều gì oan ức!

Qua cuộc bàn luận trong quán trà, Lỗ Tấn vừa nhắc nhở vừa nghiêm khắc phê phán những người làm cách mạng thời kì ấy đã mắc bệnh xa rời quần chúng, không làm được công tác dân vận, giác ngộ tư tưởng cho quần chúng nhân dàn.


Câu 3. Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc, nhưng thời gian nghệ thuật thì có tiến triển. Từ mùa thu “trảm quyết” đến mùa xuân Thanh minh đã thể hiện mạch suy tư lạc quan của tác giả. Tìm hiểu ý nghĩa của hình ảnh vòng hoa.

Thời gian nghệ thuật của truyện được khuôn vào trong hai thời điểm của mùa thu và mùa xuân. Hai cảnh đầu xảy ra vào mùa thu còn cảnh sau xảy ra vào mùa xuân. Hai con người ra đi vào mùa thu như sự đồng điệu với cái tàn tạ vốn có của mùa. Hai cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cái cách họ chết cũng không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi đau khổ dường như đã đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện vào thời gian của hai mùa: một mùa có tính chất tàn tạ và khép lại, một mùa có tính chất hồi sinh, tác giả dường như muốn gửi gắm vào đó một niềm hi vọng. Hi vọng về một sự hồi sinh. Dù không có những biểu hiện thật rõ ràng, song với cách kết cấu thời gian nghệ thuật như thế và với hình ảnh “Những cây dương liễu mới đâm ra được những chồi non bằng nửa hạt gạo” ở phần sau của truyện, tác giả đã gieo vào lòng người một niềm tin, một niềm hi vọng về một cuộc sống mới mẻ hơn, đỡ u ám hơn cho những số phận tối tăm, đau khổ trong tác phẩm.

Mùa xuân Thanh minh, người mẹ Hạ Du đến mộ con kinh ngạc về vòng hoa trên mộ con. Không phải vòng hoa của họ hàng. Không phải vòng hoa của hàng xóm… Vậy ắt hẳn, đó là vòng hoa của những người đồng chí của Hạ Du. Vậy là những người cách mạng vẫn còn! Hình ảnh vòng hoa là hiện thân của phong trào cách mạng vẫn đang âm thầm sống và sẽ sống mãnh liệt trong cái mùa xuân tràn trề sức sống ấy.


III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1. Đặc điểm thi pháp truyện của Lỗ Tấn là dung dị, trầm lắng và sâu xa. Bối cảnh của truyện cũng vậy: một quán trà, một pháp trường và một bãi tha ma. Cảnh tượng nào cũng gây cảm giác buồn buồn cố hữu. Quán trà của những người vô công rồi nghề thì nghèo nàn, tẻ nhạt. Pháp trường thì toàn những bóng đen lượn lờ, dưới ánh đèn dầu khi mờ, khi tỏ. Bãi tha ma thì “mộ dày khít như bánh bao nhà giàu trong tiệc mừng thọ”, ở giữa có một con đường mòn cố hữu mà nhà văn đã nhắc nhiều lần trong tác phẩm của mình.

Con đường mòn phân chia ranh giới nghĩa địa thành hai phần rõ rệt: bên phải là mộ của người nghèo, bên trái là mộ của những người chết chém. Người dân Trung Quốc lúc bấy giờ rất lạc hậu, họ coi làm cách mạng là “làm giặc”, là trái đạo. Hình ảnh con đường mòn được nhắc nhiều lần trong tác phẩm như một sự ám ảnh về lối sống u mê của người dân đương thời, có thể coi “Bối cảnh ấy là bức tranh điển hình của nước Trung Hoa thời trung cổ”.

Trong tác phẩm có cảnh mùa xuân, vào tiết Thanh minh, hai bà mẹ đã bước qua con đường mòn cố hữu đến thăm nhau, đó có thể coi là dấu hiệu tốt lành, hứa hẹn sự giác ngộ của người dân Trung Quốc.

Câu 2. Trong phần cuối của truyện, câu hỏi của mẹ Hạ Du: “Thế này là thế nào?” khi nhìn thấy trên nấm mồ của con mình có “những cánh hoa trắng hoa hồng,… không nhiều lắm, xếp thành vòng tròn tròn, không lấy gì làm đẹp, nhưng cũng chỉnh tề” lặp đi lặp lại hai lần như là một điệp khúc gợi nhiều day dứt. Câu hỏi trước hết chính là sự bế tắc, lạ lẫm của bà mẹ khi ngay cả bà cũng không hiểu ý nghĩa việc làm của cậu con trai. Câu hỏi bâng khuâng, có chút gì băn khoăn đau khổ và tự trách. Nó vấn vương sang cả người đọc một nỗi niềm day dứt không yên và không thể không trả lời được. Đặt câu hỏi ở phần cuối truyện khi mọi sự gần như đã lắng xuống, Lỗ Tấn muốn người đọc suy ngẫm để hiểu ý nghĩa của cái chết kia. Đồng thời, nhà văn cũng muốn gửi gắm sự day dứt về mối quan hệ gắn bó giữa quần chúng và cách mạng.

Nguyễn Tuân, khi đọc Thuốc đã có nhận xét: “Cái câu hỏi “Thế này là thế nào?” trong đoạn cuối truyện được láy đi láy lại như một điệp khúc. Nó cũng tác động đến cảm nghĩ của người đọc y như điệp khúc kể khổ trong truyện Cầu phúc… Trong Cầu phúc cũng là một bà mẹ đau khổ, bâng khuâng tự trách. Trong Thuốc lại một bà mẹ đau khổ khác, cũng vấn vương mà tự hỏi “Thế này là thế nào?”. Người đọc yên sao được trước những câu hỏi như thế… Hình như nhân vật trong truyện hỏi thẳng vào chính mình”.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Thuốc” số 4

I. Tóm tắt truyện ngắn Thuốc

– Một đêm thu gần về sáng, theo lời bác Cả Khang, lão Hoa trở dậy đi đến pháp trường để mua “thuốc” chữa bệnh cho thằng Thuyên – con trai lão, đang bị mắc bệnh lao. Bị chém hôm đó ở pháp trường là Hạ Du, một người làm cách mạng, do bị cụ Ba tố giác cháu với chính quyền để kiếm hai mươi lạng bạc mà bị bắt và hành hình. Nghe mọi người kể lại trong quán trà của gia đình lão Hoa, vào trong ngục, Hạ Du vẫn không sợ chết, còn dám cả gan rủ cả lão Nghĩa “làm giặc”. Mặc dù được chữa bằng bánh bao tẩm máu người nhưng cuối cùng thằng Thuyên vẫn không khỏi.

– Một buổi sớm mùa xuân, trong tiết thanh minh, tại nghĩa địa mẹ của Thuyên và mẹ của Hạ Du đều đến thăm mộ con. Hai người rất ngạc nhiên, băn khoăn tự hỏi “Thế này là thế nào?” khi nhìn thấy một vòng hoa đặt trên mộ người cách mạng. Bà mẹ của Thuyên đã bước qua con đường mòn cố hữu ngăn cách giữa nghĩa địa của người chết nghèo và nghĩa địa của người chết chém hoặc chết tù để sang an ủi mẹ Hạ Du.

II. Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người

Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược). Thuốc ở đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng Thuyên ăn để chữa bệnh lao. Nhan đề này có nhiều nghĩa.

– Tầng nghĩa thứ nhất của Thuốc là nghĩa tường minh: chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao tẩm máu người. Đây là một phương thuốc mê tín lạc hậu tương tự như hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh phù thủng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết của ông cụ.

– Tầng nghĩa thứ hai của Thuốc là nghĩa hàm ẩn: đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần: căn bệnh gia trưởng, căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của nó. Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà không lo tìm một thứ thuốc khác.Người dân Trung Quốc phải tỉnh giấc, không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt không có cửa sổ”.

– Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc, của chiếc bánh bao tẩm máu người: là phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ. Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu người chiến sĩ cánh mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân dân. Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc, là thằng điên và mua máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước,cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp bà Hoa) còn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng.

Câu 1: Hình tượng chiếc bánh bao

– Nghĩa thực: là một phương thuốc chữa bệnh => độc hại, gợi liên tưởng đến việc người ăn thịt người.

=> chiếc bánh bao là biểu tượng cho sự u mê, tăm tối và mê tín, dị đoan của những người Trung Quốc giai đoạn đó.

Câu 2: Hình tượng Hạ Du

– Hạ du là một người chiến sĩ cách mạng nhưng khi trong tù ngục Hạ Du được coi như một kẻ điên không ai biết đến hắn hoặc biết đến thì cũng không biết hắn con nhà ai.. Một người anh hùng đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng nhưng khi ra đến pháp trường hắn chỉ là một con người rất tầm thường, và cái chết của Hạ Du vẫn không làm cho căn bệnh u mê của người dân bị tiêu giảm. Họ vẫn tin rằng con của Lão Hoa Thuyên ăn chiếc bánh bao có tẩm máu của người cách mạng sẽ khỏi bệnh những rồi bệnh tật cũng không khỏi, một căn bệnh thật khó chữa và nan y ở trung quốc lúc biến những người dân nơi đây thành những kẻ mê muội và lầm than.

Xem thêm: Viết đoạn văn bình luận theo chủ đề: Tốc độ gia tăng dân số quá nhanh có ảnh hưởng rất lớn dến sự phát triển của đời sống xã hội

=> Bi kịch của người làm cách mạnh: xa rời quần chúng, quần chúng u mê, tăm tối, chưa giác ngộ (bị chú ruột tố giác, mẹ xấu hổ, đao phủ dùng máu trục lợi, bị miệt thị …)

Lỗ Tấn vừa nhắc nhở, vừa nghiêm khắc phê bình những người làm cách mạng xa rời quần chúng,không làm được công tác dân vận, giác ngộ tư tưởng cho nhân dân.

Câu 3: Quan hệ giữa cái chết và nội dung ý nghĩa toát ra từ nghệ thuật chơi chữ của nhà văn.

– Thời gian: mùa thu trảm quyết => mùa xuân năm sau.

=> Ý nghĩa: thể hiện mạch suy tư lạc quan, tin tưởng của tác giả.

– Hình ảnh vòng hoa:

+ Thể hiện tấm lòng ưu ái của Lỗ Tấn đối với cuộc đời, sự nghiệp, sự hi sinh của Hạ Du.

+ Thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng của cách mạng Trung Quốc: có người đã thấu hiểu cho họ.

+ Thể hiện dấu hiệu tốt lành: khẳng định sẽ có những người tiếp tục làm cách mạng, tiếp bước Hạ Du.

+ Là chi tiết nghệ thuật độc đáo, thể hiện chủ để tư tưởng tác phẩm, mang nhiều ý nghĩa biểu tượng => đối lập hẳn với hình ảnh chiếc bánh bao: nó thể hiện tấm lòng nhân ái, nỗi niềm trăn trở và nhiềm tin son sắt của Lỗ Tấn vào tiền đồ Cách mạng.

– Hình tượng con đường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Nó trở thành hình tượng ẩn dụ thể hiện mối quan tâm đặc biệt của nhà văn về vận mệnh của quốc gia. Trong tác phẩm này, nó mang nhiều ý nghĩa.

=> Con đường mòn tượng trưng cho tập quán xấu, nếp nghĩ cũ. Và đây là con đường đã cũ không thể đưa Trung Hoa đi đến tương lai. Do đó cần phá bỏ con đường, xóa bỏ ranh giới ngăn cách của lòng người.

Trung Hoa cần phải tìm ra con đường mới. Lỗ Tấn nói: Đường là cái gì? Chính là chỗ chưa có đường đi mà ra, từ chỗ chỉ có gai góc mở ra. Nhà thơ Tây Ban Nha là An-tô-ni-ô Ma-ca-đô cũng nói: Đầu tiên nào có đường! Cứ đi sẽ thành đường.

– Mẹ Hạ Du viếng mộ nhưng xấu hổ không dám bước, sau đánh liều bước tới nấm mộ bên trái => Chứng tỏ bà chưa hiểu con.

Nhưng khi nhìn thấy hoa trên mộ thì bà khóc than: Oan con lắm, Du ơi! => Bà mẹ đã bắt đầu hiểu.

– Mẹ Hoa Thuyên động lòng trắc ẩn đứng dậy, niềm đồng cảm của người mẹ mất con thúc đẩy bà bước qua bên kia đường mòn => lòng người sẽ không còn cô đơn chia cắt, trong quần chúng đã bắt đầu có sự đồng cảm và nhận thức về thế giới xung quanh.

– Cuối cùng là câu hỏi: Thế này là thế nào nhỉ? Hứa hẹn sẽ có câu trả lời, sẽ có sự giác ngộ trong quần chúng.

– Vòng hoa trên mộ Hạ Du => đã có người hiểu Hạ Du, đã có quần chúng được giác ngộ và tiếp bước theo con đường của Hạ Du, con đường cách mạng sẽ lạc quan. Vòng hoa cũng là tấm lòng tri ân kính cẩn của nhà văn đối với các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Thuốc” số 5

A.. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả

Lỗ Tấn (1881 -1936), tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân, là nhà văn cách mạng Trung Quốc. Bóng dáng của ông bao trùm cả văn đàn Trung Quốc thế kỷ XX. Nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc là Quách Mạt Nhược từng nói: ” Trước Lỗ Tấn chưa hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có vô vàn Lỗ Tấn”

Quê ông ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang miền Đông Nam Trung Quốc. Bút danh của Lỗ Tấn ghép từ họ mẹ (bà Lỗ Thụy) và chữ Tấn hành, nghĩa là: ” Đi nhanh lên”. Năm 13 tuổi, chứng kiến cảnh người cha bị bệnh vì không có thuốc mà chết, ông ôm ấp nguyện vọng học nghề thuốc. Nhờ học giỏi, ông được nhận học bổng của Nhật. Ông chọn học nghành Y để chữa bệnh cho những người nghèo, ốm mà không có thuốc và chết vì ngu dốt và mê tín,… như cha mình. Đang học trường cao đẳng Y khoa Tiên Đài thì ông đột ngột thay đổi chí hướng. Một lần xem phim ông thấy những ngươid Trung Quốc khỏe mạnh hăm hở xem quân Nhật chém một người Trung Quốc làm gián điệp cho quân Nga (thời kì chiến tranh Nga – Nhật, 1901- 1905). Ông giật mình và nhận ra rằng: Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần. Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ.

Làm văn nghệ, ông dùng ngòi bút để phanh phui các “căn bệnh tinh thần” của quốc dân, lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa. Toàn bộ sáng tác của ông chủ yếu là ba tập truyện ngắn, nhiều tập tạp văn (bình luận chính trị, xã hội, văn nghệ) đều tập trung phê phán các căn bệnh tinh thần khiến quốc dân mê muội, tự thỏa mãn. Chủ đề ” phê phán quốc dân tính” trong sáng tác của ông càng trở nên sâu sắc thấm thía, vì nhà văn viết với thái độ tự phê bình nghiêm khắc. Nếu cả dân tộc thực sự nhận thức được như nhà văn thì họ sẽ trở nên vô địch. Sự vươn mình vĩ đại của dân tộc Trung Hoa ngày càng chứng tỏ điều đó.


2. Tác phẩm

Truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn viết năm 1919, đúng vào lúc cuộc vận động ngũ tứ bùng nổ.
Tác phẩm nói về các căn bệnh “đớn hèn” của dân tộc Trung Hoa do nhân dân thì chìm đắm trong mê muội, lạc hậu mà những người cách mạng thì hoàn toàn xa lạ với nhân dân, nhà văn muốn cảnh báo: Người Trung Quốc cần suy nghĩ nghiêm túc về một phương thuốc để cứu dân tộc”.


3. Tóm tắt tác phẩm: Mở đầu tác phẩm là cảnh lão Hoa Thuyên dốc tiền để mua chiếc bánh bao tẩm máu người chiến sĩ Hạ Du vừa bị giết để chữa bệnh lao cho thằng Thuyên, con trai lão..Thằng Thuyên ăn chiếc bánh bao tẩm máu- phương thuốc cổ quái- với sự hi vọng của vợ chồng lão Hoa Thuyên là sẽ khỏi. Mọi người trong quán trà sáng hôm đó cũng tin rằng phương thuốc ấy sẽ chữa khỏi bệnh cho thằng Thuyên. Nhân đó họ bàn về Hạ Du, người tử tù vừa bị chém và cho anh là đồ điên. Chiếc bánh bao tẩm máu người đã không chữa khỏi bệnh cho thằng Thuyên. Chẳng bao lâu, thằng Thuyên chết. Kết thúc tác phẩm là cảnh bà mẹ của Hạ Du và mẹ của thằng Thuyên đi viếng mộ con vào tết thanh minh. Họ bước qua con đường mòn ngăn cách giữa mộ những người chết chém, chết tù với mộ những người nghèo trong nghĩa địa để an ủi, chia sẻ nỗi đau của nhau. Họ rất ngạc nhiên trước vòng hoa được đặt trên mộ Hạ Du. Mẹ Hạ Du khóc và kêu oan cho con.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2

Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người mang ý nghĩa gì?

Bài làm:
Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, nó đều tập trung vào ẩn ý nghệ thuật của Lỗ Tấn. Ông đã mượn hình ảnh này để phản ánh những con người lạc hậu, những tư tưởng ấu trĩ đang ăn mòn tâm hồn của người dân Trung Hoa.

Ở tầng nghĩa thứ nhất, chiếc bánh bao trước hết mang ý nghĩa thực chính là thực phẩm mà người dân trung hoa vẫn ăn hằng ngày. Nhưng trong tác phẩm này, nó trở thành một vị thuốc “thần” để cứu người, một vị thuốc mà khiến người ta chết nhưng con người vẫn tin vào đó để truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Một phương thuốc chữa bệnh mê tín, lạc hậu dẫn đến nhiều cái chết thương tâm.

Ở tầng nghĩa thứ hai, “Chiếc bánh bao tẩm máu đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt” để gợi nhắc về bệnh u mê, lạc hậu của quần chúng và bi kịch của những chiến sĩ cách mạng tiên phong. Một ví dụ điển hình chính là bố mẹ thằng Thuyên vì gia trưởng đã áp đặt cho con mình sử dụng phương thuốc này và dẫn đến cái chết thê thảm của nó. Và tất cả những con người có mặt trong quán trà cũng suy nghĩ ấu trĩ và lầm lối như vậy. Chiếc bánh bao vô tri vô giác kia đã trở thành kẻ giết người. Đây chính là sự ấu trĩ đến điên cuồng, không chịu tìm phương pháp nào, chỉ răm rắp nghe theo phương pháp không lối thoát này.

Tầng nghĩa thứ ba của hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người còn là tư tưởng và con đường đi sai lầm của những người làm cách mạng. Những người tiên phong đi trước quá xa rời quần chúng, không đi sâu tìm hiểu và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Máu để tấm chiếc bánh bao chính là máu của chiến sĩ Hạ Du đã hi sinh mình để cống hiến cho đất nước. Nhưng nhân dân Trung Hoa lại cho rằng anh là kẻ phản bội, là giặc nên căm phẫn. Mẹ Hạ Du thì xấu hổ không hiểu con mình, chú của Hạ Du thì thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng. Hạ Du là chiến sĩ cách mạng nhưng lại không gần dân để gây nên kết cục thê thảm như vậy. Hạ Du là tiêu biểu nhưng còn rất nhiều chiến sĩ nữa cũng đang trong tình trạng u mê, xa rời quần chúng như vậy.

Như vậy, hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại: nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” còn người cách mạng thì “bôn ba trong chốn quạnh hiu”.

Câu 2: Trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2
Hình tượng người cách mạng Hạ Du hiện lên như thế nào? Qua cuộc bàn luận trong quán trà về Hạ Du, Lỗ Tấn muốn nói lên điều gì?
Bài làm:
Mặc dù chỉ được miêu tả gián tiếp qua suy tư của nhân vật khác, nhưng hình ảnh Hạ Du có một vị trí đặc biệt, là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Đó là hình tượng người cách mạng giác ngộ sớm, có lí tưởng cách mạng rõ ràng(lật đổ ngai vàng, đánh đuổi ngoại tộc, dành độc lập). Hạ Du là một người dũng cảm hiên ngang, dám tuyên truyền lí tưởng cách mạng với cả người cai ngục trong những ngày chờ lên đoạn đầu đài. Trong truyện, nhà văn tỏ thái độ trân trọng, kính phục nhân cách của người cách mạng Hạ Du nhưng cũng ngầm phê phán Hạ Du xa rời quần chúng, xa rời đến mức mẹ Hạ Du cũng không hiểu, chú Hạ Du thì coi cháu mình là “làm giặc” và đi tố giác để lấy tiền thưởng, người dân lấy máu Hạ Du để chữa bệnh…Tuy nhiên, chính vòng hoa tưởng niệm Hạ Du ở phần kết thúc truyện đã hé mở tư tưởng chủ đề của tác phẩm, thể hiện niềm tin của tác giả, một ngày kia, sẽ chấm dứt bi kịch của người cách mạng tiên phong và quần chúng sẽ được tình ngộ.

Qua cuộc bàn luận trong quán trà về Hạ Du, Lỗ Tấn muốn nói lên mối quan hệ giữa cách mạng và quần chúng. Đây là thời kỳ đầu của cách mạng, thời kỳ khủng hoảng, cách mạng không gần dân, xa dân quần chúng chưa được giác ngộ. Quần chúng chưa hiểu về cách mạng họ xem những người cách mạng là giặc, là những kẻ chán sống muốn chết. Lời của bác Cả Khang gọi Hạ Du là “thằng quỷ sứ”, rồi “cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa thế thôi”,… Hình ảnh người cách mạng cô đơn, lẻ loi không được sự ủng hộ của quần chúng. Hạ Du dũng cảm là vậy thế nhưng anh bị xử tử ai cũng nghĩ là đáng, mẹ anh nghĩ con chết oan và còn thấy xấu hổ. Hình ảnh người cách mạng chỉ hiện lên gián tiếp qua lời bàn luận của người dân trong quán trà thế nhưng nó mang dụng ý vô cùng lớn đó là sự khẳng định của Lỗ Tấn về việc Cách mạng xa rời quần chúng. Khi quần chúng chưa biết, chưa hiểu về cách mạng thì sự hy sinh của những người chiến sĩ cách mạng chỉ là vô nghĩa. Vì thế cách mạng cần phải gần dân hơn. Tư tưởng của Lỗ Tấn cũng giống như tư tưởng của Hồ Chí Minh khi người cho rằng nhân dân là gốc rễ của cách mạng ” Dễ vạn lần không dân cũng chịu/ khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Câu 3: Trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2
Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc nhưng thời gian nghệ thuật thì có tiến triển. Từ mùa thu trảm quyết đến mùa xuân thanh minh đã thể hiện sự suy tư lạc quan của tác giả. Tìm hiểu ý nghĩa hình ảnh vòng hoa.

Bài làm:
Không gian nghệ thuật của truyện là tù hãm, ẩm mốc, bế tắc nhưng thời gian nghệ thuật thì có tiến triển. Câu chuyện xảy ra trong hai buổi sớm vào hai mùa thu, mùa xuân có ý nghĩa thời gian tượng trưng. Buổi sáng đầu tiên có ba cảnh: cảnh sáng tinh mơ đi mua bánh bao tẩm màu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn bánh, cảnh quán trà…Ba cảnh gần như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quan trà và nới đương phố là nơ tụ tập của nhiều loại người, do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng là vào dịp tiết Thanh minh-mùa xuân tảo mộ. Mùa thu lá rụng, mùa xuân đâm chồi nảy lộc gieo mầm. Từ không gian nghệ thuật đó, chúng ta có thể thấy được suy tư lạc quan của Lỗ Tấn rằng mùa thu lá rụng nhưng mùa xuân nó lại đâm chồi nảy lộc. Cách mạng Trung Quốc giờ có thể tàn tạ nhưng rồi nó sẽ đổi khác, tiến lên và giành chiến thắng. Ông vẫn có niềm tin về tương lai tươi sáng của cách mạng dân tộc.

Ý nghĩa của hình ảnh vòng hoa. Nghĩa địa của làng mộ dày khít như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ ,có một con đường mòn ở giữa chia làm hai:Nghĩa địa người chết chém phía bên trái nghĩa địa người nghèo phía bên phải .Con đường mòn là biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen.Hai bà mẹ đã bước qua con đường mòn để đến gặp nhau vì đồng cảm ở tình thương con sâu sắc. Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vòng hoa : “hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum”.Bà mẹ Hạ Du cứ lẩm bẩm câu hỏi “Thế này là thế nào?”.Câu hỏi vừa hàm chứa sự sửng sốt ,vừa ẩn giấu niềm vui vì có người đã hiểu con mình. Đồng thời đã là câu hỏi thì đòi hỏi có câu trả lời. Việc làm của Hạ Du đã khiến mọi người phải suy nghĩ một cách nghiêm túc.

Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương đối với người chiến sĩ cách mạng tiên phong. Đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của ông với cuộc cách mạng Tân Hợi. Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân lý lịch sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần chúng thuở ấy, vẫn có người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết tâm noi gương người cách mạng tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa. Vòng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho niềm lạc quan đối với tiền đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện “Thuốc” là một dự cảm về con đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một đám cháy ngày mai. Có thể xem vòng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”, phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.

Luyện tập
Bài tập 1: trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2

Hãy nêu ý nghĩa các chi tiết: nghĩa địa người chết chém bên trái, nghĩa địa người chết bệnh, chết nghèo bên phải, chia cắt bởi một con đường mòn.

Bài làm:
Các chi tiết nghĩa địa người chết chém bên trái, nghĩa địa người chết bệnh, chết nghèo bên phải, chia cắt bởi một con đường mòn ở phần gần cuối tác phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Ở không gian nghĩa địa. Nhân vật chính của bức tranh này là hai bà mẹ. Họ đều có điểm chung là có con bị chết trẻ, họ cùng đến nghĩa địa để viếng con. Những người con của họ đều được chôn tại “miếng đất dọc chân thành phía Tây vốn là đất công”. Điều khác biệt là những đứa con ấy được chôn ở hai phía của nghĩa địa được ngăn cách bằng “con đường mòn, nhỏ hẹp, cong queo” do “những người hay đi tắt giẫm mãi mà thành”.

Con đường tạo ra bởi thói quen, bởi thành kiến ngự trị lâu ngày, thói quen ăn sâu thành nếp nghĩ trong đầu óc mọi người, bởi thế con đường này không chỉ để đi mà con đường này còn là con đường của thành kiến, được tạo ra bằng sự u mê, dẫn tới sự đối xử không bình thường, thành sự ngăn cách tự nhiên, bất khả kháng của những con người trong xã hội ấy. Đứa con của bà Hoa được chôn ở “phía tay phải” nơi dành cho “những người nghèo”, còn đứa con của bà Hạ thì chôn ở phía tay trái, nơi dành cho “những người chết chém hoặc chết tù”. Con đường trở thành ranh giới ước định giữa “dân” và “giặc. Điểm nổi bật lên từ nghĩa địa này là “cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ” mà từ đó toát lên ý nghĩa biểu trưng là các nhà giàu, tức tầng lớp thống trị trong xã hội Trung Hoa thời đó, tồn tại trên sự hi sinh xương máu của “dân” và của “giặc”, “dân” bị bóc lột, bị bần cùng hóa mà chết dần chết mòn trong đói khổ, còn nếu chống đối thì bị qui là “giặc” và tất yếu là phải chết. Cả hai loại chết đều cùng vì khổ đau, vì bị áp bức nhưng lại bị phân biệt đối xử rõ ràng qua hai nửa của nghĩa địa được ngăn cách bằng con đường của thành kiến mê muội ấy.

Hình tượng con đường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Lỗ Tấn. Nó trở thành hình tượng ẩn dụ thể hiện mối quan tâm đặc biệt của nhà văn về vận mệnh của quốc gia. Trong tác phẩm này, nó mang nhiều ý nghĩa. Con đường mòn tượng trưng cho tập quán xấu, nếp nghĩ cũ. Và đây là con đường đã cũ không thể đưa Trung Hoa đi đến tương lai. Do đó cần phá bỏ con đường, xóa bỏ ranh giới ngăn cách của lòng người. Trung Hoa cần phải tìm ra con đường mới. Lỗ Tấn nói: Đường là cái gì? Chính là chỗ chưa có đường đi mà ra, từ chỗ chỉ có gai góc mở ra.

Bài tập 2: trang 111 sgk ngữ văn 12 tập 2
Câu hỏi của bà mẹ trước vòng hoa trên nấm mộ người tử tù “Thế này là thế nào? ” có ý nghĩa gì?

Bài làm:
Ở phần cuối tác phẩm mẹ của Hạ Du ra thăm mộ con vào tết thanh minh và bà thấy vòng hoa trắng trên mộ Hạ Du bà đã hỏi “thế này là thế nào?” Câu hỏi này có nhiều ý nghĩa. Nếu người dân lúc đó đã giác ngộ thì chắc chắn đã không có hình ảnh con đường mòn phân chia ranh giới hai khu mộ và không có câu hỏi của bà mẹ người tử tù “Thế này là thế nào?” khi thấy vòng hoa trắng trên mộ Hạ Du. Câu hỏi đó thể hiện sự ngạc nhiên nhưng không giấu được cảm xúc mừng thầm của người mẹ. Hiện tượng đó cho thấy đã có biểu hiện của sự giác ngộ trong số những người dân địa phương, và hứa hẹn sự giác ngộ cho mọi người trong một ngày không xa. Cái câu hỏi Thế này là thế nào?” trong đoạn cuối truyện được láy đi láy lại như một điệp khúc. Nó cũng tác động đến cảm nghĩ của người đọc y như điệp khúc kể khổ trong truyện cầu phúc … Trong Cầu phúc cũng là một bà mẹ đau khổ, bâng khuâng tự trách. Trong Thuốc lại một bà mẹ đau khổ khác, cũng vấn vương mà tự hỏi “Thế này là thế nào?”. Người đọc yên sao được trước những câu hỏi như thế.. Hình như nhân vật trong truyện hỏi thẳng vào chính mình.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Thuốc” số 6

1. Tác giả

Lỗ Tấn (1881 – 1936), nhà văn lớn của Trung Quốc, được mệnh danh là “Chủ tướng của cách mạng văn hóa Trung Quốc”. Một trong những vấn đề lớn mà Lỗ Tấn quan tâm là dùng ngòi bút để đánh thức tinh thần dân tộc, ý chí độc lập tự cường, chống lễ giáo phong kiến lạc hậu và chống đế quốc. Trong tình trạng xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, Lỗ Tấn nhận thấy một căn bệnh tinh thần phổ biến trong nhân dân. Đó là sự trì trệ, mông muội, u mê về dân trí, hậu quả của hàng nghìn năm phong kiến đề nặng lên đời sống dân tộc. Để chữa được căn bệnh tinh thần ấy, trước hết phải tìm ra đúng bệnh, phê phán và chỉ ra con đường khắc phục. Chỉ có làm dược việc này, đất nước Trung Quốc mới có thể hướng tới một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.

2. Tác phẩm

Thuốc được viết năm 1919, kể về việc chữa bệnh lao bằng cách ăn bánh bao tẩm máu người chết chém và cuối cùng bệnh cũng không khỏi. Nhưng nội dung tác phẩm không đơn giản chí như vậy mà còn đặt ra một vấn đề lớn và khái quát hơn: sự tê liệt, u mê, mông muội của quần chúng và bi kịch không được hiểu, không được ủng hộ của người cách mạng tiên phong. Từ đó, nổi lên một câu hỏi đầy nhức nhôi, đớn đau: Phải tìm phương thuốc nào đế chữa chạy căn bệnh u mê, đớn hèn của dân tộc?

Cốt truyện Thuốc rất đơn giản. Chỉ vài nét chấm phá với vài ba cảnh, vài ba nhân vật, nhưng có sự gợi điển hình về một đất nước Trung Hoa u ám, nặng nề, nghèo khổ, lạc hậu, cấp thiết phải tự giải phóng.


3. Phương thuốc của sự u mê

Mở đầu truyện là cảnh đêm thu u mê gần về sáng, trăng lặn rồi nhưng mặt trời chưa mọc. Trong lúc mọi người còn ngủ say cả, hai vợ chồng ông chủ quán trà đã thức dậy, cấn trọng dồn những đồng tiền chắt chiu, dành dụm từ bao giờ, một bọc tiền đồng, mang đi mua thuốc cho đứa con trai duy nhất đang kiệt quệ, mỏi mòn vì bệnh lao. Thứ thuốc này thật kì quặc, khó tin, nhưng với vợ chồng lão Hoa Thuyên lại là phương thuốc đặc biệt, linh diệu, có thế chữa khỏi bệnh lao. Việc đi lấy thuốc là việc vô cùng hệ trọng, cơ hội hiếm có, điều dó làm cho cả hai vợ chồng cùng xúc động mạnh: bà Hoa giương to mắt, môi run run, còn lâu Thuyên thì tay cứ run run khi cầm và cất gói tiền vợ đưa.

Niềm tin vào tính chất kì diệu của phương thuốc đã trở thành nguồn ánh sáng soi chiếu từ bên trong dẫn đường cho lão Thuyên đi trong đêm tối, giúp lão tăng thêm sinh lực sống: trời lạnh hơn, nhưng lão cảm thấy sảng khoái, như bỗng dưng mình trẻ lại và ai ban cho phép thần thông cải tử hoàn sinh. Tuy nhiên, trong đáy sâu tâm thức, lão Thuyên vẫn mơ hồ nhận thấy việc đi lấy thuốc này có gì ma quái, ghê rợn: lão thấy hơi lành lạnh. Không phải ngẫu nhiên mà đang đi, chiếc đèn lồng của lão tự nhiên tắt và xung quanh là lũ lượt những người trông như kẻ chết đói, như những bóng ma, kì dị, quái lạ. Một cảnh tượng ghê sợ bao trùm. Lão như rơi vào chốn địa ngục như vậy. Trong cái đêm mùa thu mờ sáng lạnh lẽo ấy, đâu chỉ có mình lão Thuyên lặn lội, lọ mọ đi đến ngã ba đường (nơi chém người) nọ, mà có biết bao người cùng đồ xô đến đây. Ngoài những kẻ hiếu kì, liệu còn có bao nhiêu con người cùng mang một niềm tin, trong sự tuyệt vọng khốn khổ vào phương thuốc tuyệt vời này? Có lẽ rất đông, bởi lão Thuyên chỉ thấy lưng người, cả dám xô đẩy nhau ào ào, bao nhiêu người đi qua, xô nhào tới như nước triều. Đủ thấy một niềm tin mông muội, u mê bao trùm lên đời sống bao người.

Phương thuốc ấy là gì? Đó là chiếc bánh bao tẩm máu người: một chiếc bánh bao nhuốm máu dỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt, từng giọt. Nghe nói, ăn thứ bánh bao này, bệnh tật gì cũng lui hết. Tuy vậy, phương thức ấy vẫn đầy sự quái lạ nên lão Thuyên vẫn rờn rợn, sợ hãi: Lão vội vàng móc gói bạc trong túi ra, run run định đưa cho hắn, nhưng lại không dám đưa tay cầm chiếc bánh. Nhưng khi về, cầm chắc gói “thuốc” trong tay, tâm trạng lão Thuyên trở nên phấn khởi, tin tưởng. Đây thật là niềm cứu tin cho cuộc đời lão: Lão để hêt tinh thần vào gói bánh… Lão sẽ mang cái gói này về nhà đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sẽ sung sướng biết bao! Niềm tin đã biến thành niềm vui và hi vọng. Mặt trời đã mọc, chiếu sáng khắp nơi, như hòa cùng hi vọng về một tương lai tốt đẹp dang cháy sáng trong lòng người cha khốn khổ!

Cảnh chế biến và ăn thuốc diễn ra trang trọng giống như một nghi thức hành lễ, nhưng vẫn phảng phất không khí ghê rợn. Thái độ nghiêm trọng, thành kính của hai ông bà Hoa Thuyên, hai ông bà cùng im lặng run run, bí mật chế biến thuốc, bộc lộ sự tự tin sâu sắc vào “thần dược”, nhưng vẫn không át được cái ghê rợn của phương thuốc ma quái qua những hình ảnh cái chao đèn rách nát loang lổ máu, chiếc bánh đẫm máu, ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên, một mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà. Nhìn đứa con ăn thuốc, hai ông bà tràn ngập niềm hi vọng: “Lão Thuyên đứng một bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gỉ”. Người mẹ cứ lặp đi lặp lại câu nói “sẽ khỏi ngay thôi” vừa như khẳng định một hi vọng, vừa như trấn an cả con lẫn bản thân mình. Niềm tin ấy còn được củng cố thêm bằng những lời lẽ dồn dập, khẳng định chắc như đinh đóng cột của bác Cả Khang, người đã mách phương thuốc đặc biệt này: “May phúc cho nhà ông dấy nhé!”, “Cam đoan thế nào cũng khỏi”, “Nhất định khỏi thôi mà!”, “Cam đoan khỏi mà!”…

Niềm tin ấy diễn tả sự u mê, lạc hậu đến mức cùng cực của nhân dân Trung Quốc thời bấy giờ.


4. Hình tượng người cách mạng Hạ Du

Bánh bao được tẩm máu người tử tù. Người tử tù đó là một nhà cách mạng tên là Hạ Du. Hạ Du có một vị trí đặc biệt trong tác phẩm. Đứng về cấu trúc cốt truyện, Hạ Du chỉ xuất hiện trong con mắt của các nhân vật khác, tuy nhiên, nhân vật này là chỗ liên kết, xâu chuỗi, lắp ghép các tuyến nhân vật và sự kiện với nhau, 0 cảnh một, chúng ta chưa hề biết Hạ Du là ai, mới chỉ có sự kiện: có người chết chém và có người xin bánh bao thấm máu đế chữa bệnh, ơ cảnh la, tác giả hó mở chút ít về thân thế Hạ Du: “Con nhà bác Tứ chủ con nhà ai…”, “không ngờ hắn lại nghèo gặm không ra đến như thế…”, “nằm trong tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc”. Hạ Du là trung tâm bàn luận, bày tỏ thái độ nhận thức của mọi người về chính trị, về cách mạng. Cảnh bốn, nấm mồ Hạ Du là nơi hai bà mẹ gặp gỡ, cảm thông, an ủi lẫn nhau.

Hạ Du là một trong những nhà cách mạng tiên phong của cách mạng Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Anh có lí tưởng rõ ràng: lật đổ ngai vàng, đánh đuổi ngoại tộc, giành độc lập cho dân tộc. Câu nói “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta” (có nghĩa “Nước Trung Quốc của người Trung Quốc”) được các nhà cách mạng dân chủ tư sản năm 1907 nêu ra và hô hào đồng bào nồi dậy chống triều dinh Mãn Thanh. Hạ Du hiên ngang trước cái chết, dũng cảm tuyên truyền’lí tưởng cách mạng với cả tên cai ngục trong những ngày ở tù chờ án chém. Nhưng tất cả ý chí, mục đích và hành động của anh lại được nhận thức một cách méo mó, đầy sai lạc trong con mắt của quần chúng nhân dân, điển hình là ông Ba (chú anh ta), bác Cả Khang và những người đang tụ tập ở quán trà lão Thuyên. Dưới con mắt họ, Hạ Du chỉ là thằng khốn nạn, nhài con, không muốn sống, quân làm giặc, kẻ điên khùng, đáng tội chết. Đối với họ hàng thì may mà tố giác được nếu không thì cả nhà mất đầu hết. Đối với người bị bệnh thì may phúc quá vì lấy được thứ thuốc “đặc biệt” nhân dịp xử chém anh ta! Còn những kẻ khác, nghe chuyện Hạ Du thì thú quá, “Ái chà chà” như nghe chuyện giặc cỏ vậy. Thật xót xa và đau đớn cho hình ảnh người cách mạng trong con mắt của những quần chúng dốt nát, u mê.

Có thể nhận thấy, Hạ Du trong câu chuyện chính là hình ảnh nhà cách mạng nữ Thu Cận (người cùng quê với Lỗ Tấn, từng du học ở Nhật, sau mở tờ Trung Quốc nữ báo tuyên truyền giải phóng phụ nữ), một trong những nhà cách mạng Trung Quốc đặt nền móng cho cuộc cách mạng Tân Hợi, đã phải lên đoạn đầu đài lúc 36 tuổi. Hạ Du là một cái tên khác của Thu Cận. Hạ đốì với Thu, Du đối với Cận, đều là tên của hai loại ngọc sáng.

Những người cách mạng ở đây là những người đang tiến hành cuộc cách mạng tư sản, mong muốn lật đổ chế độ phong kiến để đưa dân tộc Trung Hoa tới một tương lai tốt đẹp hơn. Nhưng họ chỉ “làm cách mạng bên trên” nghĩa là chỉ làm cách mạng bởi một số’ người, chưa chuẩn bị sự tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng. Vì vậy, điều họ làm chẳng được ai hiểu: nhân dân không hiểu, mẹ cha cũng không, họ hàng càng không. Điều ấy càng cho thấy không những sự mê muội của dân trí mà còn cả những sai lầm của những người làm cách mạng tư sản. Thật là một bi kịch lớn!

5. Vòng hoa trên mộ – một hi vọng về tiền đồ của cách mạng Trung Quốc

Một buổi sáng mùa xuân ở nghĩa địa ven thành phố. Nghĩa địa những người chết chém hoặc chết tù ở về phía tay trái, và nghĩa địa những người chết nghèo ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này lớp khác… Hình ảnh này mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nghĩa địa người chết chém, chết tù để chung, nghĩa là người ta không hề phân biệt đâu là kẻ làm cách mạng, làm chính trị hi sinh vì nhân dân và kẻ trộm cướp giết người, nghĩa là tất cả đều làm giặc. Thứ hai, số người bị chính quyền tù tội, giết chết cũng nhiều như dân thường! Một con số cân bằng diễn tả một thực trạng xã hội đen tối, tàn bạo, một bối cảnh điển hình thê thảm như địa ngục của một nước Trung Hoa trung cổ.

Hai bà mẹ với hai ngôi mộ, cách nhau một con đường mòn. Hình ảnh con đường mòn thường được nhắc đến trong văn Lỗ Tân diễn tả một thói quen, một nếp nghĩ, một kiểu ứng xử. Vì thế, con đường mòn tại nghĩa địa này không chỉ đơn thuần là ranh giới tự nhiên mà còn là ranh giới vố hình của lòng người, của định kiến lâu đời trong xã hội. Hai bà mẹ này, dù cùng chung nỗi đau mất con nhưng giữa họ dường như bị ngăn cách bởi một không gian vô hình khó vượt qua.

Trong một khoảnh khắc xúc động giàu cảm thông bởi cùng nhịp đập với trái tim người mẹ khốn khổ kia, bà Hoa đã bước qua con đường mòn đế đồng cảm, chia sẽ nỗi đau với mẹ Hạ Du. Phá bỏ khoảng cách vô hình ấy đâu có dễ dàng vì bà Hoa phải vượt qua một định kiến cô hữu; ghê sợ, và khinh bỉ những kẻ tử tội: chỉ có kẻ xấu xa, làm giặc mới bị tù, bị chết chém, loại người ấy đáng bị người đời nguyền rủa, xa lánh.

Người sống – mẹ tử tội đã được cảm thông. Còn kẻ nằm dưới đất, người cách mạng – Hạ Du, cũng được ai đó thâu hiểu, tiếc thương, trân trọng đặt một vòng hoa tưởng niệm. Vừa ngạc nhiên đến mức bàng hoàng, sững sờ, vừa như ẩn giấu một niềm vui vì có người thấu hiểu con mình, bà mẹ Hạ Du cứ lặp đi lặp lại câu hỏi: “Thế này là thế nào?”. Lời khóc sau đó của bà: “Mẹ biết rồi! Du ơi! Trời còn có mắt…”, góp phần hé mở nguyên nhân của sự xuất hiện vòng hoa trên mộ Hạ Du. Tiếng khóc như bộc lộ dâu hiệu của sự thức tỉnh, giác ngộ. Trước đây, bà không hiểu con, và có thồ trong thâm tâm, bà vẫn cho con mình làm giặc nên khi gặp bà Hoa ở nghĩa dịa lúc nãy, bà vân còn ngập ngừng vỉ xấu hổ, còn từ giờ phút này, bà đã hiểu con mình, hiểu đường đi của con mình là đúng đắn, dược người khác đồng tình.

Theo lời của chính Lỗ Tân: “Trong truyện Thuốc bỗng dưng tôi thêm một vòng hoa trên nấm mộ anh Du”. Sự xuất hiện của vòng hoa ấy là câu trả lời về tương lai sự nghiệp cách mạng mà Hạ Du theo đuổi, là biểu hiện của lòng khâm phục nhân cách kiên cường của Hạ Du và là lời khẳng định một. tiền đồ lạc quan tất yêu cua cách mạng Trung Quốc. Đây cũng chính là một ý tưởng mang tính cách mạng của Lỗ Tấn.

6. Thuốc là một tiêu để nhiều nghĩa

Trước hết đó là phương thuốc chữa bệnh lao của những người dân Trung Hoa lạc lối, tổì tăm. Còn người thời kì này không chỉ u mê trong nhận thức khoa học mà còn u mê trong cả nhận thức chính trị, xã hội. Thật là một căn bệnh tinh thần trầm trọng cần phải chữa chạy, cần phải có một phương thuốc đặc biệt nếu dân tộc Trung Hoa muốn tự giải phóng khỏi hàng nghìn năm phong kiến. Thuốc còn có ý nghĩa thứ hai vì lẽ đó.

Thế giới của Thuốc tồn tại trong ba không gian đời sống, những khoảng không tối tăm, u ám, lạnh lẽo. Đó là một pháp trường như thế giới của những âm hồn quỷ sứ và địa ngục: ánh mắt cú vọ ngỡi lên, bao nhiêu người kì dị hết sức, đi đi lại lại như. những bóng ma, một người quần áo đen ngòm mắt sắc như hai lưỡi dao. Tiếp đó là không gian của một quán trà, nơi sinh hoạt, thông tin về mọi sự kiện thời sự xảy ra trong hàng phố, chốn ồn ào đông đúc với rất nhiều nhận xét, quan điểm, tình cảm, bộc lộ trình độ dân trí của đa số’ quần chúng nhân dân. Cuối cùng là một nghĩa địa mênh mông, lạnh lẽo: trời lạnh lắm, gió thì tắt, những ngọn cỏ khô đứng thẳng tắp, một tiếng rên rỉ, run run đưa lên giữa không trung nhỏ dần rồi tắt hẳn, một con quạ đen đậu trên cành khô trụi lá… Tất cả mang bóng dáng của một không gian đen tôi, ngột ngạt, của xã hội Trung Quốc thời trung cổ. Tuy nhiên, đến cuối câu chuyện, tác giả đã đưa con người hướng tới một không gian cao rộng hơn. Hai bà mẹ đã vượt ra khỏi tầm không gian chật hẹp của quán trà, không gian tối tăm, ma quái của pháp trường, không gian buồn thảm, lạnh lùng của nghĩa địa mà cùng vươn tới một không gian rộng mở theo cánh chim vút bay thẳng về phía chân trời xa.

Thời gian của câu chuyện diễn ra trong hai mùa: thu và xuân. Không hiểu vì sao cứ đến mùa thu người ta mới xử chém người, gọi là thu quyết. Phải chăng lá vàng mùa thu rụng gợi hình ảnh con người đi vào cõi chết. Hai cái chết của hai người trai trẻ cũng diễn ra vào mùa thu. Họ chết rất khác nhau.Nhưng đến mùa xuân, hai bà mẹ cùng chung nỗi đau khổ đã đồng cảm, thông hiểu nhau. Diễn tả hai mùa: một mùa chuẩn bị khép lại, một mùa mở ra một năm mới, dường như tác giả tỏ bày một niềm hi vọng: lá vàng rụng xuống để tích nhựa cho chồi non. Sự sống sẽ được hồi sinh. Cùng với không gian mở cuối câu chuyện, khoảng thời gian mùa xuân này với những cây dương liễu mới đâm ra được những mầm non bằng nửa hạt gạo, đã gieo vào lòng người đọc một niềm hi vọng về một cuộc sống mới mẻ hơn, đỡ u ám hơn cho những số phận khổ đau trong thiên truyện.

Sức dồn nén của truyện ngắn Thuốc thật là lớn, đúng nhự lời nhà văn Nguyễn Tuân bình luận: “Trong một truyện ngắn của Lỗ Tân, thường thấy rằng cái ngắn ấy chứa chất không biết bao nhiêu là sự sống, bao nhiêu là cuộc đời nhân dân lao động Trung Hoa, nó héo như dám cỏ bốn nghìn năm bị đè dưới tảng đá lịch sử. Lỗ Tân viết truyện ngắn, dứng vào chỗ cái đám cỏ, hất hòn đá kia đi mà vồng ngọn lên. Truyện Thuốc theo tôi nghĩ, đã đem được cái xanh rất khỏe vào đám cỏ úa… Trong truyện, cái người bị chém đầu kia thật ra vẫn không chết, cái tinh thần của người ây vẫn còn sống trong chung quanh, và hoa vẫn tươi trên mộ, đúng như Lỗ Tấn vẫn thường nói: “Người chết chi chết thật, khi họ chết hẳn trong lòng người sống”.

(LẼ LƯU OANH)

GỢl Ý ĐỌC HIỂU

Câu 1

Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người dế chữa bệnh lao có ý nghĩa tượng trưng cho tình trạng mê muội lạc hậu của nhân dân Trung Quốc trong xã hội thời cũ mặc dù ai cũng biết rằng Trung Quốc vốn có một nền y học cổ truyền lừng lẫy. Dùng bánh bao tẩm máu người đề trị bệnh là một phương thuốc u mê ngu muội chẳng khác chút nào phương thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho bố Lỗ Tấn bị bệnh phù thũng với hai vị “không thế thiếu” là rễ cây mía kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái, một phương thuốc dị hợm đã đưa người bố thân yêu của nhà văn đến với cái chết oan uổng.

Chi tiết “bánh bao tẩm máu người” vừa nói trên đây trước khi truyện Thuốc ra đời một năm, trong Nhật kí người điên, qua lời nhân vật chính Lỗ Tân đã nhắc đến chuyện: “Năm ngoái trên tỉnh có tên phạm nhân bị chém, còn .có một người mắc bệnh lao, lấy bánh bao chấm máu ăn”. Bánh bao chấm máu người là phương thuốc mà bô’ mẹ thằng Thuyên trân trọng nâng niu như thể tiên dược để cứu mạng cho thằng con “mười đời độc đinh” nhưng rồi sau cùng không những không cứu được mạng nó mà ngược lại đã giết chết nó như thế, hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người nêu bật chủ đề tư tưởng của truyện Thuốc là đả phá mê tín dị đoan, phê phán tập quán chữa bệnh phản khoa học: dùng bánh bao tẩm máu người để chữa bệnh lao.

Nhưng cũng rất dễ thấy, Lỗ Tấn không dừng lại ở đó. Chỉ cần đặt ra câu hỏi: “Vì sao chiếc bánh bao không phải tẩm máu một tử tù phạm tội về kinh tế, xã hội… mà phải là một chính trị phạm” thì sẽ thấy được dụng ý sâu sắc của ông. Nếu Hạ Du là tử tù về kinh tế xã hội thì chiếc bánh bao tẩm máu người chỉ nêu bật một chủ đề phê phán tập quán chữa bệnh phản khoa học như đã nói. Nhưng ở đây Hạ Du lại là tử tù chính trị, một chiến sĩ cách mạng bất khuất dũng cảm. Chi tiết nhỏ này rất quan trọng vì đã làm cho nội dung tác phẩm được mở rộng, tầm tư tưởng tác phẩm được nâng cao. Ông bà Thuyên vì quá thương con, cho con mình uống máu liệt sĩ để trị bệnh. Sai lầm nghiêm trọng này cho thấy ông bà không chỉ dốt nát về mặt khoa học mà còn lạc hậu về mặt chính trị.

Lỗ Tân không chỉ phê phán sự lạc hậu về chính trị của ông bà Thuyên, của quần chúng (những kẻ không hiểu được ý nghĩa cao cả của việc Hạ Du làm mà đả kích, chế giễu gọi Hạ Du là “nhãi con”, là “thằng khốn nạn”, “thằng quỷ sứ”, gọi Hạ Du là “đáng thương hại, là điên”…) mà ông còn phê phán sự thoát li quần chúng của các chiến sĩ cách mạng. Bởi lẽ quần chúng chỉ có thể giác ngộ được khi có sự dắt dìu hướng dẫn của các chiến sĩ tiên phong. Các chiến sĩ cách mạng khi đó đã hoạt động đơn độc. Việc cụ Ba Hạ tố cáo cháu là Hạ Du để lĩnh thưởng và việc mẹ Hạ Du cảm thấy “xấu hổ” khi gặp bà Thuyên trên nghĩa địa đã đủ để cho thấy điều này.Bởi vậy có thể nói phê phán sự lạc hậu về mặt chính trị và phê phán sự thoát li quần chúng của các chiến sĩ cách mạng tư sản là hai mặt gắn liền nhau trong chủ đề thứ, chủ đề chính của truyện Thuốc bộc lộ qua hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người.

Câu 2

Những người trong quán trà của lão Hoa từ việc bàn về công hiệu của chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du đã chuyển sang bàn về bản thân nhân vật Hạ Du. Qua những lời bàn luận này người đọc có thể thấy Hạ Du là một chiến sĩ tiên phong bất khuất, dũng cảm có mục tiêu chính trị là lật đổ nền thống trị Mãn Thanh. Thế nhưng chẳng một ai hiểu được ý nghĩa cao đẹp lớn lao của việc làm đó, họ đả kích và chế’ giễu Hạ Du. Họ gọi Hạ Du là “nhãi con”, là “thằng khốn nạn”, “thằng quỷ sứ”. Họ cho Hạ Du là “đáng thương hại”, là “điên”… Qua cuộc bàn luận này, Lỗ Tấn muốn nói lên bộ mặt lạc hậu nhất là lạc hậu về mặt chính trị của dân chúng Trung Quốc đương thời và lòng yêu nước của chiến sĩ cách mạng Hạ Du.

Câu 3

Theo nhà văn Nguyễn Tuân, truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn đó là câu chuyện của một số người tìm thuốc, bán thuốc và uống thuốc thật dung dị đơn sơ như một bức tranh thủy mặc Trung Hoa… Không gian nghệ thuật của truyện bao gồm một quán trà nghèo nàn, một pháp trường vắng vẻ, một bãi tha ma mộ dày khít với một con đường mòn hư ảo. Nhìn chung, có thể nói không gian nghệ thuật của tác phẩm là tù hãm bế tắc. Không gian nghệ thuật ấy không hề gợi lên vẻ bao la kì lạ như Tam quốc, Thủy Hử, hay li kì huyền ảo như Tây Du Kí, ghê rợn và ma mị như Liêu trai chí dị mà tỉnh tuồng hiện thực trầm lắng, tĩnh lặng mà u uất nỗi niềm. Thế nhưng thời gian nghệ thuật thì có tiến triển.

Chuyện diễn ra trong ba buổi sớm vào hai mùa khác nhau. Hai cảnh đầu xảy ra vào mùa thu. Cảnh sau xảy ra vào mùa xuân đúng vào ngày tiết Thanh Minh. Theo quan niệm của nhiều người Trung Hoa, mùa thu là khoảng xế chiều của một năm cũng là sự thu xếp, thu vén để mà kết thúc. Trong mùa này, lá úa vàng rơi rụng để cây tích tụ nhựa sống dành cho một mùa xuân đầy hi vọng sẽ tới. Tương tự như thế, cái chết của hai người Hạ Du và Thuyên đều vì sự ngu muội của xã hội cũng chẳng khác chi hai chiếc lá lìa cành để tích nhựa cho mùa xuân nhất định sẽ tới. Cái chết của họ cũng có thế hiểu là sự gieo hạt ươm mầm, trả giá cho một sự giác ngộ. Đến mùa xuân đúng tiết Thanh Minh, hai bà mẹ cùng chung nỗi đau mất con đã gặp gỡ nhau nơi nghĩa địa. Hai bà đã vượt qua con đường mòn cô’ hữu. “Con đường do con người giẫm mãi mà thành để thăm nhau và bắt đầu thông cảm nhau”.

Hình ảnh vòng hoa hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau nằm khoanh trên nấm mộ khum khum của Hạ Du đặc biệt có ý nghĩa quan trọng chẳng khác chi hình ảnh con đường cuối tác phẩm Cố hương. Lúc bấy giờ, không phải không có những người âm thầm lén đến đặt hoa trên mộ liệt sĩ. Nên nhớ là khi triều đình Mãn Thanh giết chết các chiến – sĩ cách mạng đương thời như Thu Cận, Từ Tích Lâm thì ở một số’ nơi như ở Nhật Bản các lưu học sinh Trung Quốc đã họp đồng hương lại, điệu liệt sĩ, chửi Mãn Thanh, sau đó có người đã điện về tố’ cáo chính phủ Mãn Thanh vô nhân đạo (Lỗ Tấn, Anh Phạm Ái Nông). Với hình tượng vòng hoa, Lỗ Tấn hi vọng và tin tưởng là những hành động rải rác đây đó như vừa nói sẽ trở thành phố biến. Ông hiểu rõ làm cách mạng thì hi sinh là điều đương nhiên thôi song khi nhân dân, cả dân tộc đều thấu hiểu ý nghĩa của sự hi sinh ấy thì cái “chết” của các bậc tiên liệt sĩ là vị thuốc thần duy nhất đem lại cái “sống” cho người sau (Lỗ Tấn – Chỗ chết).

Câu 4

Niềm tin tưởng, lạc quan của tác giả thể hiện qua các chi tiết vòng hoa và lời bà mẹ người tử tù, đứng trước vòng hoa bất ngờ xuất hiện, cứ lẩm bẩm một câu hỏi. Thế này là thế nào? Bà ngạc nhiên “Hoa không có gốc, không phải dưới đất mới lên? Ai đã đến đây?”. Câu hỏi của Tứ theo Nguyễn Tuân là một câu hỏi “ám ảnh” độc giả rất là bền lâu. Khi văn nói: “Tôi đọc truyện “Thuốc” cách đây lâu và tồn tại mãi trong đầu một câu hỏi dó của bà mẹ nước Tấu củ”. Câu hỏi của bà mẹ người tử tù vừa thể hiện sự bàng hoàng sửng sốt vừa ẩn giấu một niềm vui là đã có người hiểu được con mình…

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *