Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài sáng tác năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc” được tặng giải Nhất của Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam năm … xem thêm…1954-1955. Tác phẩm là câu chuyện về những người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức bóc lột, đọa đày, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do và đây cũng chính là ước mơ cuộc sống tự do hạnh phúc của người dân. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn “Vợ chồng A Phủ” hay nhất mà Blogthoca.edu.vn tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn điều đó.
Bài soạn “Vợ chồng A Phủ” số 1
I. Đôi nét về tác giả Tô Hoài
– Tô Hoài sinh năm 1920 mất năm 2014, tên khai sinh là Nguyễn Sen
– Quê quán: quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại – làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghãi Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công
– Thời trẻ, ông phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề như làm gia sư, dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,… và nhiều khi thất nghiệp
– Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến, ông làm báo và hoạt động nghệ thuật ở Việt Bắc
– Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp nhưng sau đó nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay.
– Ông là một nhà văn lớn với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục (gần 200 đầu sách với nhiều thể loại khác nhau) trong văn học hiện đại Việt Nam
– Năm 1996, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
– Các tác phẩm chính: Dế mèn phiêu liêu kí (truyện, 1941), O chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006)
– Quan điểm sáng tác: Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường. Theo ông “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật, đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”
– Phong cách sáng tác:
+ Thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền
+ Lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của người từng trải
+ Vốn từ vựng phong phú được sử dụng đắc địa, tài ba, có sức lay động, lôi cuốn người đọc
II. Đôi nét về tác phẩm Vợ chồng A Phủ
1. Hoàn cảnh ra đời
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc, đưuọc tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
2. Tóm tắt
Truyện kể về cuộc đời của vợ chồng A Phủ. Mị là cô gái trẻ đẹp, nhà nghèo, sống ở Hồng Ngài. Cô bị bắt cóc về làm vợ A Sử, làm con dâu gạt nợ nhà thống Lí Pá Tra. Cô phải lao động quần quật, sống không khác gì con trâu, con ngựa. Khi mùa xuân đến, cô cũng muốn đi chơi liền bị A Sử trói đứng trong buồng. Chỉ đến khi A Sử bị đánh, cô mới được cởi trói để đi lấy lá thuốc, xoa dầu cho chồng. A Phủ là một chàng trai nghèo, mô côi, khỏe mạnh, gan góc, giỏi lao động. Vì đánh A Sử đến phá rối cuộc chơi nên bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, phải vay vốn thống lí để nộp phạt, rồi trở thành người ở đợ trừ nợ trong nhà thống lí. Một lần để hổ ăn mất một con bò, A Phủ bị trói đứng, bị bỏ đói suốt mấy ngày đêm. Một đêm, khi trở dậy thổi lửa để sưởi, Mị bắt gặp dòng nước mắt chảy trên gò má đen sạm của A Phủ. Mị nghĩ về thân phận mình, đồng cảm về cảnh ngộ của A Phủ. Cô đã cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và bỏ trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra. Hai người đến Phiềng Sa, thành vợ thành chồng, tạo dựng một cuộc sống mới. A Phủ được sự giác ngộ của cán bộ cách mạng A Châu trở thành tiểu đội trưởng du kích. Họ cùng mọi người cầm súng để gìn giữ bản làng.
3. Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “bị đánh vỡ đầu”): Cuộc sống và diễn biến tâm trạng của Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra
– Phần 2 (tiếp đó đến “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ và cuộc xử kiện ở nhà thống lí Pá Tra
– Phần 3 (còn lại): Mị cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài
4. Giá trị nội dung
– “Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện về những người dân lao động vừng núi cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm đã vùng lên phản kháng đi tìm cuộc sống tự do
– Truyện cũng nói lên ước mơ về một cuộc sống tự do, hạnh phúc của người dân
5. Giá trị nghệ thuật
– Ngôn ngữ giản dị, sinh động, hấp dẫn
– Xây dựng nhân vật đặc sắc, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, tài tình
– Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình, vừa giàu chất thơ
Câu 1 (trang 14 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Cảnh ngộ của Mị:
+ Là con dâu gạt nợ (do cha mẹ Mị không trả được nợ cho thống Lí)
+ Mị làm đi làm lại những công việc thường ngày, không ngừng nghỉ, lùi lũi như con rùa trong xó cửa
+ Sống trong căn phòng chỉ có ô vuông bằng bàn tay, không biết được trời mưa hay nắng
+ Tính cách và thân phận của Mị:
+ Trước khi về nhà thống Lí: Mị là cô gái trẻ đẹp, hiền dịu, có hiếu với cha mẹ, chăm chỉ và có nhiều chàng trai để mắt tới
+ Khi về nhà thống Lí: Mị sống vật vờ, héo mòn
– Đêm tình mùa xuân:
+ Mị nhớ lại tất cả kỉ niệm trước kia của mình: cô gái có tài thổi sáo rất hay, tiếng sáo đưa Mị thoát khỏi thực tại
+ Mị sắm sửa đi chơi thì A Sử về, hắn trói Mị vào cột nhà, khiến cô chịu đau đớn tinh thần, thể xác
– Khi nhìn thấy A Phủ bị trói: Mị dửng dưng rồi khi nhìn thấy hai giọt nước mắt A Phủ lăn dài trên gò má, Mị tỉnh thức, nàng cởi trói cho A Phủ cả hai người chạy trốn
→ Tâm trạng Mị từ tuyệt vọng tới hi vọng, Mị dám đứng lên đấu tranh để thoát khỏi kìm hãm
Câu 2 (trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2)
*Nhân vật A Phủ:
– Chàng trai khỏe mạnh, có tài, nhiều cô gái trong bản mê
– Dám đánh trước thái độ hống hách, cậy quyền thế của A Sử
+ Các động từ mạnh diễn tả hành động của A Phủ: chạy vụt ra, ném con quay, xộc tới, kéo, xé, đánh tới tấp
+ Hành động quyết liệt thể hiện lòng căm thù trước kẻ thù
+ Yêu công lí, tính cách can trường
– A Phủ bị bắt, phải vay nhà thống lí một trăm đồng bạc nộp vạ cho làng, nên chàng trở thành người ở đợ nhà thống lí
– A Phủ làm mất bò, bị thống lí trói vào cột giữa trời
– A Phủ được Mị cứu thoát khỏi nhà thống lí, nước mắt A Phủ thức tỉnh Mị
– A Phủ khao khát được sống tự do, điều đó giúp chàng chiến thắng nỗi đau thể xác và số phận nghiệt ngã để giành lấy tự do
*Cách miêu tả nhân vật
– Nhân vật Mị: được miêu tả bằng nghệ thuật so sánh, thủ pháp vật hóa, cực tả nỗi cơ cực đời Mị
+ Sử dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo, nói lên số phận bất hạnh của Mị
– Nhân vật A Phủ: được khắc họa thông qua hành động, làm nổi bật tính cách táo bạo, gan góc, sự phản kháng mạnh mẽ của chàng trai yêu tự do.
Câu 3 (trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 1)
Nét độc đáo trong cách quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi:
– Chi tiết, hình ảnh miêu tả núi rừng đậm chất thơ
– Cách kể chuyện tự nhiên, sinh động. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, cách dẫn dắt lôi cuốn, sự đan cài chi tiết khéo léo
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật bằng nhiều bút pháp khác nhau khắc họa được tính cách, số phận nhân vật: tả tâm lí, ngoại hình gắn với suy nghĩ thầm lặng
– Ngôn ngữ mang âm hưởng núi rừng, giọng điệu trần thuật có sự hòa kết giọng người kể với nhân vật tạo chất trữ tình
Luyện tập
Giá trị nhân đạo của tác phẩm:
– Cảm thông với cảnh ngộ, nỗi khổ của người dân miền núi Tây Bắc
– Phát hiện ra sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người
– Ngợi ca tình cảm, lòng trắc ẩn, sự đồng cảm của những người bị áp bức
– Mở ra con đường sống tự do
Bài soạn “Vợ chồng A Phủ” số 2
Tác giả, tác phẩm
Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn đặc sắc, trích từ tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng vùng Tây Bắc. Với chuyến đi dài tám tháng ấy, nhà vãn đã sống cùng đồng bào các dân tộc Mèo, Dao, Thái, Mường ở nhiều vùng nơi đây. Chuyến đi thực tế sáng tác ấy giúp ông hiểu biết rõ ràng, sâu sắc về cuộc sống và con người miền núi. Nó đã để lại cho ông những kỉ niệm khó quên và tình cảm thắm thiết đối với đất nước và con người Tây Bắc.
Truyện Tây Bắc – Kết quả của chuyến đi đó là một trong những tác phẩm văn xuôi đặc sắc, tiêu biểu của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm này đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
Tóm tắt
Mị là một thiếu nữ xinh đẹp. Do gia đình thiếu nợ thống lí Pá Tra và không trả nổi nên cô bị bắt về làm dâu nhà thống lí, làm vợ của A Sử để trừ nợ. Tuy danh nghĩa là vợ, là dâu nhưng thực chất cô chỉ là người ở đợ không công trong nhà ấy. Cô rất đau khổ trong cuộc đời buồn rầu u tốì. Vào một đêm xuân đẹp, Mị muốn đi chơi nhưng đã bị A Sử bắt gặp, trói cô vào góc cột. Đêm đó, A Sử đi chơi, chọc phá dân làng bị A Phủ đánh bể đầu. Nhờ đó, Mị được thả ra để chăm sóc thuốc thang cho hắn.
A Phủ bị bắt về nhà thống lí và bị phạt phải ở dợ trọn đời để trả món nợ một trăm đồng mà thống lí đã buộc anh phải vay để làm bữa tiệc đãi mọi người. Một lần A Phủ đi chăn bò làm lạc mất một con. Thông lí_Pá Tra cho trói anh vào gốc cây. Đêm đêm, Mị thổi lửa hơ tay gần đó mà không để ý. Một hôm, Mị chợt thấy dòng nước mắt lăn dài trên má A Phủ và bỗng quan tâm. Nghĩ lại đời mình, cô cảm thông và thương xót cho A Phủ nên cắt dây mây, cởi trói cho anh. A Phủ chạy đi, Mị cũng vụt chạy theo anh vì không còn con đường nào khác.Hai người ra khỏi Hồng Ngài tới Phiềng Sa rồi kết nghĩa thành vợ chồng. Gặp cán bộ A Châu, A Phủ được giác ngộ cách mạng và trở thành đội trưởng du kích.
Nội dung
Thông qua việc miêu tả cuộc sống nhọc nhằn, khổ ải dưới ách thống trị của thống lí Pá Tra và cuộc đổi đời lớn lao khi cách mạng về của vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã phản ánh cuộc sống bị bóc lột tàn tệ của người dân tộc, đặc biệt là phụ nữ dưới chế độ thực dân phong kiến, sự quật khởi mạnh mẽ của họ, đồng thời nói lên công ơn to lớn, bản chất nhân đạo tốt đẹp của cách mạng, tình đoàn kết dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng.
Đoạn văn trích giảng trong Sách giáo khoa có ba phần:
– Phần 1: Tình cảnh Mị làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
– Phần 2: Tình cảnh của A Phủ, cảnh A Phủ đánh A Sử và cuộc xử kiện kì quặc trong nhà thống lí.
– Phần 3: Việc Mị và A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài.
1. Tình cảnh Mị làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra
Mị là một cô gái xinh đẹp, dù đói nghèo nhưng vẫn hạnh phúc. Vốn giàu sức sống lại có đời sống tinh thần phong phú, chị hát hay và thổi sáo giỏi. Tuổi yêu đương, những đêm tình mùa xuân con trai đến thổi sáo đứng nhẵn cả chân vách dầu buồng Mị. Chị có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo theo chị hết núi này sang núi khác. Và chị cũng có một tình yêu gõ vách hẹn hò… Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt kế từ cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra làm con dâu gạt nợ.
Từ đó, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ chẳng khác chi một công cụ biết nói. Quanh năm suốt tháng, chị phải làm lụng quần quật, khố cực quá chừng: Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đem nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả dem cả ngày. Sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, lúc nào Mị cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi, chị không mong đợi bất kì cái gì và cũng chẳng còn có khái niệm gì về không gian hay thời gian nữa. Mị tin rằng mình đã bị trình ma nhà thống lí chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi
Tuy vậy, trong tâm thức của cô gái Hmông đau khố này vần âm ỉ khôn nguôi lòng ham sống, một khát vọng tự do, hạnh phúc mãnh liệt không có sự bạo tàn nào dập vùi trói buộc nối. Gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống, khát vọng đó lại trỗi dậy mãnh liệt.
Còn nhớ lúc đầu bị bắt về làm dâu nhà Pá Tra, đêm nào Mị cũng khóc. Chị phản kháng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử. Nhưng rồi lòng hiếu thảo không cho phép Mị làm việc dó. Ách áp bức nặng nề của thế lực phong kiến và thần quyền ở miền núi đã buộc chị phải tiếp tục sống mà như đã chết.
Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đọa đày đen tối. Khi đêm tình mùa xuân đến, lòng ham sống, niềm khát khao hạnh phúc tình yêu ở cô gái khốn khổ này lại một lần nữa trỗi dậy. Bất chợt, cô nhớ đến những ngày tươi đẹp trong quá khứ. Tai Mị văng vẳng tiếng sảo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị. thổi sáo giỏi.. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp lửa và thối sáo. Mị. uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như. thổi sáo. Có biết bao nhiêu người, mêị ngày đêm dã thổi sáo di theo Mị. Thế là chị bước đến góc nhà “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào dĩa den cho sáng. Trong đầu Mị dang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi”. Nhưng lập tức, chị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn, nhưng Mị vẫn thả hồn mình theo những đám chơi xuân với những tiếng hát xuân tình tứ. Sau cùng chị nhận ra số phận mình hiện tại “không bằng con ngựa”.
Sức sống mãnh liệt của Mị lại trỗi dậy lần thứ ba khi bên bếp lửa, chị nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ khi anh bị cha con thống lí.Pá Tra hành hạ, có nguy cơ mất mạng trong nay mai. Mị cảm thây người này cùng cảnh ngộ với mình, quyết định cởi trói cho A Phủ và sau đó chị chạy theo anh trốn khỏi cái nhà ngục-của thống lí Pá Tra tại Hồng Ngài.
2. A Phủ – kẻ nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra
A Phủ là một chàng trai mồ côi khỏe mạnh, lao động giỏi, thạo công việc, lại cần cù, chịu khó, nhưng không thể lấy nổi vợ vì không có ruộng, không có bạc. Là một thanh niên dũng cảm cương nghị, A Phủ xông thẳng vào đánh ngã A Sử, con quan thống lí khi tên này cùng bọn tay chân đến phá đám hội. Nhưng cũng do việc làm đó mà A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt phạt vạ. Cảnh xử kiện hết sức quái gở là một biểu hiện dậm nét của tập tục dã man của chế dộ phong kiến miền núi. Bị cáo là A Phủ không được trình bày thanh minh gì cả. Quá trình xét xử diễn ra trong khói thuốc phiện, trong mưa đòn và ồn ào tiếng chửi rủa. Cuối cùng làng xử phạt A Phủ một trăm đồng bạc trắng. Không có tiền nộp, anh phải làm con trâu, con ngựa cho nhà Pá Tra đề trừ nợ.
Từ đó, A Phủ trở thành kẻ nô lệ của nhà thống lí. Anh phải lao động nặng nhọc vất vả đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Nhưng chắng may một hôm, hổ vồ mất con bò. Thế là A Phủ bị thống lí trói vào cọc. Chúng dùng một sợi dây mây trói anh từ chân lên vai chỉ còn cố và đầu là hơi lúc lắc được. Pá Tra bảo: Bao giờ chúng nó bắt được hổ về tao cho niày khỏi chết. Nếu kliông được hổ thì cho mày chết ở đấy. Suốt mấy ngày liền A Phủ bị trói ở góc nhà như thế.
3. Mị cởi trói cho A Phủ
Lúc đầu Mị dửng dưng khi thấy A Phủ bị trói. Chị thản nhiên đốt lửa hơ tay. Lúc này, đúng là Mị đã trở lại tâm trạng ê chề sống mà như chết. Nhưng sau đó khi thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại, Mị chợt hồi tưởng mình củng từng bị trói như thế. Tìm thấy sự đồng cảnh ngộ với A Phủ và chị liên tưởng tới lúc A Phủ sẽ chết: Chết đau, chét đói, chết rét, phải chết. Chị lại tưởng tượng có khi A Phủ trốn dược, chị phải bị trói thay vào chỗ ấy. Thế là Mị đã hành động táo bạo và quyết liệt. Chị rút con dao nhỏ cắt lúa cắt dứt dây mây đề cởi trói cho A Phủ. Đây là một hành vi nổi loạn của Mị. Cắt dây trói của A Phủ cũng chính là chị đã cắt cái dây trói vô hình trói chị vào gia đình thống lí Pá Tra. Liền đó, hai người cùng trốn hỏi Hồng Ngài, cùng kết thúc cuộc đời trâu ngựa tôi đòi. Giây phút này chính là cái bản lề khép lại một chuỗi ngày quá khứ đau thương tăm tối và hé mở ra tương lai tươi sáng cho lứa đôi này. Mị và A Phủ thành vợ chồng. Sống ở khu du kích Phiềng Sa, xây dựng hạnh phúc và hăng hái tham gia kháng chiên.
Gợi ý trả lời các câu hỏi
Câu 1. Trong Vợ chồng A Phủ, Mị là hình ảnh tiêu biểu cho những người phụ nữ nghèo khổ ở miền núi thời thực dân phong kiến. Vốn là một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo nhưng số phận Mị lại vô cùng bất hạnh. Để gạt món nợ của cha mẹ, chị bị bắt về làm con dâu cho nhà thống lí Pá Tra. Vị trí của chị ở đây là ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cùng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lén, cô ẩy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Với ngoại hình và chân dung ấy đủ thấy một số phận éo le, một cuộc đời đau khổ. Danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất Mị là nô lệ. Cha con tên thống lí không những chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cả cuộc đời chị, mà chúng còn đầu độc, áp chế về mặt tinh thần với chị. Chúng làm cho Mị tin rằng nó đã bắt mình vào trĩnh ma nhà nó rồi thì chỉ đợi ngày chết ở đây thôi. Chính vì vậy, chị đã sông cam chịu, nhẫn nhục, tăm tối tưởng như không còn chút gì hi vọng có sự đổi thay. Mị sống mà như đã chết, lúc nào chị cũng lầm lủi như con rùa nuôi trong xó cửa và tưởng mình là con trâu, con ngựa.
Nhưng thực ra trong chiều sâu, tâm hồn Mị không hoàn toàn giá lạnh mà vẫn tiềm tàng một sức sống bền bỉ, dai dẳng mãnh liệt. Hễ có dịp là sức sống đó lại trỗi dậy, chẳng khác gì hòn than hồng bị tro bụi phủ đầy, nhưng khi được ngoại cảnh tác động nó lại mạnh mẽ bùng lên. Sức sống đó chính là niềm khát khao hạnh phúc và tình yêu, là thái độ không cam chịu thân phận nô lệ, là tinh thần phản kháng chống áp bức bức lột.
Đã có ít nhất ba lần sức sống tiềm tàng ở cô gái Mèo này trỗi dậy, kể từ khi bị bắt làm con dấu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra:
– Lần đầu, Mị định tìm đến cái chết (chị cầm nắm lá ngón về nhà lạy chào vĩnh biệt cha). Trong hoàn cảnh của chị lúc này, tự tử là một thái độ phản kháng, không chấp nhận số phận, thà chết còn hơn sông nô lệ.
– Lần thứ hai một đêm tình – mùa xuân, Mị uống rượu thấy phơi phới trở lại, chị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng (Mị không chịu được bóng tối của kiếp đời nô lệ). Chị lấy váy áo định đi chơi (A Sử ở liền đó đã trói chị lại một cách tàn nhẫn).
– Lần thứ ba, Mị cởi trói cho A Phủ và hai người cùng trốn khỏi Hồng Ngài.
Như vậy, tính cách Mị có hai mặt mâu thuẫn: cam chịu và phản kháng, chấp nhận cuộc sống lầm lũi trâu ngựa nhưng vẫn khao khát được sống như một con người. Sau cùng, tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc tình yêu đã chiến thắng ở Mị, dẫn tới sự bùng nổ ở hành vi chị tự giải phóng cho mình.
Mị và A Phủ, cả hai đều là nạn nhân của một chế độ thống trị hung ác, cũng là những kẻ nô lệ trong nhà Pá Tra. Cả hai đều tiềm tàng một sức phản kháng mãnh liệt. Nhưng Mị là một phụ nữ, lại bị đày đọa giam hãm lâu ngày trong nhà thống lí. Còn A Phủ là một thanh niên quen sống tự lập từ nhỏ. Tinh thần phản kháng của anh vì vậy mạnh mẽ, táo bạo hơn nhiều.
Đặc biệt, tính cách của A Phủ bộc lộ rõ nét qua cảnh đánh A Sử và cảnh xử kiện, ở cảnh đầu, thái độ của chàng trai nghèo miền núi này thật mạnh mẽ và quyết liệt: Một người to lớn vụt chạy ra vung tay ném con quày rất to vào mặt A Sử… Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Còn trong cảnh xử kiện kì quặc ở nhà Pá Tra, dẫu phải chịu trận mưa đòn dữ dội, A Phủ vẫn gan lì chịu đựng, không chút kêu rên mà chỉ im lìm như cái tượng đá.
Chính tính cách đậm chất nam tính đó là cơ sở để sau này khi gặp A Châu, anh nhanh chóng giác ngộ cách mạng.
Câu 2. Thật ra, Mị đã thấy A Phủ bị trói từ mấy đêm hôm trước. Nhưng chị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Một câu văn nói thêm của tác giả nhằm cực tả sự lạnh lẽo, tê dại trong tâm hồn của Mị.
Thế mà đêm mùa đông ấy, cải con người với nỗi đau riêng quá lớn không còn khả năng quan tâm đến người khác ấy bỗng đổi thay. Đêm ấy A Phủ khóc. Sức sống mãnh liệt, tinh thần phản kháng kiên cường cộng với nỗi đau xót vì bất lực đã khiến gã thanh niên vốn cứng rắn ấy phải rơi nước mắt, một dòng nước mắt lắp lánh bò xuống hai lõm má đã xám đen. Dòng nước mắt đó như giọt nước cuối cùng làm tràn li nước đầy. Dòng nước mắt đó đủ sức đưa Mị ra khỏi cõi u’ mê để trở về cuộc đời thực: Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói dứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Dòng nước mắt của A Phủ đã giúp Mị nhớ ra mình, tự xót thương mình,
Từ chỗ tự xót thương mình, chị dần dần có sự xót thương đôi với A Phủ, một người cùng cảnh ngộ. Từ ý nghĩ về mình, Mị chuyển ý nghĩ sang A Phủ: Ta là thân đàn bà… chỉ còn biết đợi ngày rù xương ở đây thôi nhưng còn Người kia việc gì phải chết thế. Tình thương lan tỏa dần. Đến lúc Mị nghĩ giá như có phải trói vào cọc thay cho A Phủ – giả như A Phủ đã trốn đi thì làm sao Mị củng không thấy sợ cũng là lúc chị có một hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ và đó cũng là hành động tự cứu mình thoát ra khỏi địa ngục nhà thống lí Pá Tra.
Câu 3. Truyện Vợ chồng A Phủ thể hiện một tư tưởng nhân đạo tích cực thâm nhuần quan điểm giai cấp và tinh thần cách mạng. Truyện phản ánh cuộc sống cơ cực, bị đè nén áp bức nặng nề của người dân miền núi vùng Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến cấu kết với thực dân Pháp. Đại diện cho bọn thống trị hung bạo là cha con nhà thống lí Pá Tra. Đại diện cho dân nghèo miền núi bị đày đọa tàn nhẫn là Mị và A Phủ. Không chỉ tố cáo bọn phong kiến thực dân tàn bạo, hung ác mà truyện còn khẳng định sức sống bền bỉ, mãnh liệt, khát vọng tự do, hạnh phúc tình yêu và đặc biệt ca ngợi sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ và tính tích cực cách mạng của họ.
Truyện Vợ chồng A Phủ có nghệ thuật miêu tả, trần thuật và dựng đôi thoại khá đặc sắc.
Về nghệ thuật miêu tả trước tiên là nghệ thuật miêu tả nhân vật, khắc họa chân dung và tính cách của các nhân vật Mị và A Phủ. Hai nhân vật trung tâm này có nhiều nét gần gũi nhau về hoàn cảnh và số phận, nhưng vẫn là những tính cách có những nét riêng biệt rất rõ. Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu nội tâm, trong những đổi thay thăng trầm của tâm trạng mà phát triển tính cách. Điều này thể hiện rõ nhất trong đoạn diễn tả khát vọng hạnh phúc của Mị trỗi dậy trong đêm tỉnh mùa xuân và đoạn Mị cởi trói cho A Phủ. Trong khi đó, tính cách gan góc, bộc trực của A Phủ lại được nhà văn thể hiện qua nhiều hành, động và những lời đối thoại rất ngắn gọn, đơn giản. Kế tiếp là nghệ thuật tả cảnh cũng rất đặc sắc. Bằng khả năng quan sát sắc sảo tinh tế, bằng năng lực dựng cảnh, dựng người đầy màu sắc miền núi và giàu chất thơ, Tô Hoài đã khắc họa được nhiều bức tranh về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, nhiều phong tục độc đáo, và hình ảnh con người Hmông hồn nhiên ngay thẳng. Đặc sắc nhất là đoạn tả cảnh mùa xuân, những đêm tình mùa xuân.
Về nghệ thuật trần thuật, cách dắt dẫn các tình tiết xây dựng cốt truyện rất gần gũi với truyện kể dân gian, nhưng vẫn hấp dẫn nhờ sự sắp xếp tự nhiên, chuyến cảnh hợp lí, các doạn nói về lai lịch nhân vật tuy ngắn gọn nhưng đủ đế thể hiện số phận và tính cách của từng nhân vật.
Bài soạn “Vợ chồng A Phủ” số 3
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
1. Tác giả
Tô Hoài (1920-2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), nhưng sinh ra và lớn lên ở quê ngoại làng Nghĩa Đô, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Thời trẻ, ông đã lăn lội kiếm sống bằng nhiều nghề, như làm gia sư dạy kèm trẻ, bán hàng, làm kế toán hiệu buôn,…và nhiều khi thất nghiệp.
Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một số truyện vừa viết theo dạng võ hiệp, nhưng rồi ông nhanh chóng chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những tác phẩm đầu tay, trong đó có Dế mèn phiêu lưu kí. Năm 1943, ông ra nhập hội văn hóa cứu quốc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc. Sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, tự truyện, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam.
Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bằng lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có- nhiều khi rất bình dân và thông tục. Năm 1996, ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu ký (truyện 1941), O chuột (tập truyện, 1942), Quê người ((tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (truyện 1953), miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi ký,1992), Chiều chiều (tự truyện), Ba người khác (2006).
2. Tác phẩm
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập truyện Tây Bắc, được tặng giải Nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Năm 1954-1955, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối. A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 14 sgk ngữ văn 12 tập 2
Tìm hiểu số phận và tính cách nhân vật Mị qua:
+ Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.
+ Diễn biến tâm trạng và hành động
Bài làm:
Hình ảnh Mị qua cảnh ngộ bị bắt về làm dâu để gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.
Mị xuất hiện trong lời kể về thời qúa khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mị được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuỏi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất mièn tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Cái đau đớn của số phận Mị bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mị vay tiền của Pá Tra – số nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mị đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong. Mị trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.
Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc và định tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác. Đã bao lần Mị định chết, thế nhưng điều đó thật xót xa. Mị muốn chết cũng không được chết. Bởi cô chết món nợ đó vẫn còn, và đương nghiên cha cô là người phải chịu món nợ đó. Vì thương cha, Mị đành tiếp tục sống.
Những năm tháng sống trong nhà thống lí Pá Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mị xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự. Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn. Trong đầu Mị, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: ” Mỵ cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngưạ, con trâu làm còn có lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày”.
Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con thống lí trên thân xác, bản thân Mị bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mị dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh trong Mi.Cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt : lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc một cô gái có chồng và Mị sống song tồn với một ý nghĩ : Mình đã ” trình ma nhà thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một thứ “thuốc phiện tinh thần” trói chặt đời Mị nô dịch tinh thần cô.
Mị bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng. A sử trói Mi , dùng bạo lực quyết liệt tách Mị ra khỏi thế giới con người . Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mị là tâm hồn cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ẩn dụ về căn buồng của Mị. Nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mắt Mị chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. MỊ thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý Pa tra, đã tạo ra những hệ quả ghê ghớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mị.
Diễn biến tâm trạng và hành động:
Mị là cô gái có sức sống mãnh liệt, cuộc sống bị trà đạp tủi cực như vậy nhưng không làm mất đi khát vọng sống của cô. Sức sống ấy tồn tại trong cô gái trẻ, nó giống như lò than hồng âm ỉ cháy chỉ cần một cơn gió thổi lên là bùng thành ngọn lửa. Ngọn lửa ấy bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Mị muốn đi chơi và quyết định đi chơi. Mị sống lại với những ký ức tuổi xuân, Mị nghe tiếng sáo vọng lại tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi “mày có con trai con gái rồi/ mày đi làm nương/ ta không có con trai con gái/ ta đi tìm người yêu”. Tiếng chó sủa xa , những đêm tình mùa xuân đã tới. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Mị say và rồi cô sống lại những ngày về trước, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao người mê và đi theo Mị. … Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Khi thức tỉnh, Mị ý thức được cuộc sống của mình, về thân phận của mình. Vì ý thức được nên Mị muốn chết để thoát khỏi cái cuộc sống này. Và cuối cùng Mị quyết định đi chơi. ” trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía vách”.Bị trói nhưng Mị không biết bởi hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo trong những cuộc chơi và vùng bước đi. Nhưng vì bị trói, không đi được Mị lúc này mới tỉnh và biết mình bị trói.
Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân, cuộc sống của Mị càng bị o ép trói buộc hơn. Những đêm mùa đông dài trên núi cao Mị chỉ còn biết thức với ngọn lửa. Sống với ngọn lửa với tâm trạng cô đơn. buồn tủi cho số kiếp của mình. Những tưởng cô gái ấy lại tiếp tục cam chịu, tiếp tục chấp nhận cuộc sống mê muội nơi nhà Pá Tra. Thế nhưng vì lòng thương người, Mị cứu A Phủ và vì sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thoát cho mình (từ chỗ ban đầu cũng thấy A Phủ bị trói vẫn bình thường, dưng dưng. Nhưng trong đêm cuối ở nhà Pá Tra nhìn thấy giọt nước mắt A Phủ thì Mị vì thương A Phủ, có những hành động đổi khác. chặt dây trói cứu A Phủ. Nhưng rồi vì sợ chết, sợ cha con thống lí biết Mị cứu A Phủ cũng sẽ giết cô. Vì thế, cô quyết định chạy theo A Phủ.
Như vậy, qua diễn biến tâm trạng và hành động của Mị. Ta thấy rõ, Mị là cô gái có sức sống tiềm tàng mãnh liệt, cô gái có lòng thương người.
Câu 2: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2
Ấn tượng của anh (chị) về tính cách nhân vật A Phủ (qua hành động đánh nhau với Sử, lúc bị xử kiện và khi về làm công gạt nợ nhà thống lí Pá Tra). Bút pháp của nhà văn khi miêu tả nhân vật Mị và A Phủ có gì khác nhau?
Bài làm:
Tính cách nhân vật A Phủ qua các tình huống:
A Phủ xuất hiện trong cuộc đối đầu với A Sử: A Phủ là người tự do, hồn nhiên chất phác, bảo vệ lẽ phải. “Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lang vào giữa mặt. Nó vừa kịp bung tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hàng loạt các động từ chỉ hành động nhanh, mạnh, dồn dập thể hiện một tính cách mạnh mẽ, gan góc, một khát vọng tự do được bộc lộ quyết liệt. Cuộc sống khổ cực (nhà nghèo, cha mẹ chết trong trận dịch đậu mùa) đã hun đúc A Phủ tính cách ham chuộng tự do, một sức sống mãnh liệt, một tài năng lao động đáng quý: “biết đúc lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do, hồn nhiên, chất phác.
Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra các lỗ cửa sổ như khói bếp. “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong lần lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm”. Còn A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tưọng đá. Hủ tục và pháp luật trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra. Cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng và cảnh A Phủ bị đánh, bị trói vừa tố cáo sự tàn bạo của bọn chúa đất vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân.
Khi về nhà thống lí Pá Tra làm công gạt nợ A Phủ vẫn luôn làm việc chăm chỉ,và A Phủ là một người trung thực bởi khi bò bị hổ bắt mất. A Phủ có thể bỏ trốn tuy nhiên A Phủ không hề bỏ trốn mà vẫn về nhà báo với thống lí và chịu trói. Bút pháp của Tô Hoài khi miêu tả nhân vật Mị có những nét khác với khi miêu tả nhân vật A Phủ. Tác giả dành cho Mị những trang văn buồn thương, đau xót; còn với A Phủ, tác giả dùng những lời văn mạnh mẽ, rắn rỏi (bên những câu buồn thương, đau xót xuống nhân vật Mị).
Câu 3: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2
Những nét độc đáo trong quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi (nếp sinh hoạt, phong tục, thiên nhiên, con người, xây dựng tình huống, cốt truyện, nghệ thuật dẫn truyện)
Bài làm:
Với tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã cho ta thấy được nét đọc đáo trong quan sát và diễn tả của Tô Hoài về đề tài miền núi.
Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…).
Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với nhũng chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ (trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ… Đám trẻ con, chơi quay cười ầm trước sân nhà.
Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn
Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi (tôi cướp được con gái bố làm vợ, ném pao, tiếng sáo, kèn lá).
Luyện tập: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2
Qua số phận của cả hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến của anh (chị) về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Bài làm:
Qua tác phẩm ta thấy xót thương cho Mị cô gái xứng đáng có được hạnh phúc. Ấy vậy mà, cô gái ấy phải trở thành dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Một con người có sức sống mãnh liệt Mị trở nên lầm lũi và không còn sức phản kháng. Bên cạnh Mị là A Phủ – chàng trai của núi rừng, ưa tự do, chất phác cũng trở thành kẻ làm công gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Điều đó mới thấy được sự bạo ngược của bọn thống trị, chà đạp số phận con người.
Gía trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện khi qua hành động đối xử tàn bạo của cha con nhà thống lí với Mị và A Phủ chẳng khác gì con vật biết nói. Qua sự thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân nghèo tác giả phát hiện được sức sống mãnh liệt và phẩm chất tốt đẹp nơi con người họ. Với Mị trong đêm tình mùa xuân Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi và quyết định đi chơi. Mị còn là một người có lòng thương người khi thấy những giọt nước mắt của A Phủ rơi, cô đã quyết định cứu A Phủ và rồi vì sợ chết, thương chính mình Mị quyết định đi theo A Phủ. Trong khi đó, A Phủ vẫn nổi bật lên là một chàng trai dám chịu trách nhiệm, chỗ dựa cho Mị khi A Phủ bảo Mị “đi theo tôi”. Chính những phẩm chất tốt đẹp đã giúp Mị và A Phủ thức tỉnh và rồi họ rời Hồng Ngài đến Phiềng Xà và giác ngộ cách mạng.
Như vây, tác phẩm Vợ chồng A Phủ mang giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó được tạo bởi niềm cảm thông sâu sắc nỗi đau của con người. Sự nâng niu nét đẹp tâm hồn và hơn cả là sự giải phóng số phận của con người.
Bài soạn “Vợ chồng A Phủ” số 4
1. Tác giả
– Tô Hoài sinh năm 1920, tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội)
– Sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, thời trẻ, ông đã phải lăn lộn kiếm sống bằng nhiều nghề và nhiều khi thất nghiệp.
– Tô Hoài bước vào con đường văn học bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn và một cuốn truyện vừa, viết theo dạng võ hiệp
– Sau đó, ông chuyển sang văn xuôi hiện thực và được chú ý ngay từ những sáng tác đầu tay, trong đó có Dế Mèn phiêu lưu kí.
– Năm 1943, ông gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc, làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.
– Năm 1996 ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
– Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu kí (truyện, 1941), Ổ chuột (tập truyện, 1942), Quê người (tiểu thuyết, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944), Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953), Miền Tây (tiểu thuyết, 1967), Cát bụi chân ai (hồi kí, 1992), Chiều chiều (tự truyện, 1999), Ba người khác (tiểu thuyết, 2006).
2. Tác phẩm
– Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập Truyện Tây Bắc, được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955, sau hơn nửa thế kỷ, đến nay vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
– Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được viết khi Tô Hoài cùng với bộ đội có chuyến đi thực tế vào giải phóng toàn bộ Tây Bắc năm 1952.
– Bố cục gồm 3 phần:
+ Phần 1 (từ đầu … “bao giờ chết thì thôi”): tâm trạng và hoàn cảnh sống của Mị
+ Phần 2 (tiếp … “đánh nhau ở Hồng Ngài”): Hoàn cảnh của A Phủ
+ Phần 3 (còn lại): Cuộc tự giải thoát của Mị và A Phủ.
Đọc – hiểu văn bản
1 – Trang 14 SGK
Tìm hiểu số phận, tính cách nhân vật Mị qua:
– Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đày đọa tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.
– Diễn biến tâm trạng và hành động.
Trả lời:
a. Cảnh ngộ của nhân vật Mị:
– Mị là con dâu gạt nợ của nhà Thống lí: cha mẹ nghèo, không trả được nợ (món nợ từ ngày cưới, lớn dần lên vì nặng lãi), Mị làm dâu gạt nợ cho cha mẹ.
– Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại, làm không ngưng nghỉ. Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà nhà này thì làm không nghỉ tay.
– Mị sống trong một căn phòng chỉ có một ô vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài cũng không thể biết được trời nắng hay mưa chỉ biết thấy mờ mờ trăng trắng.
b. Tâm trạng và hành động của Mị
Trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ, đó là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt và khi có cơ hội sẽ bùng phát.
– Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:
+ Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”.
+ Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.
+ Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy: “Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”. Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử bất công như một con vật.
Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.
– Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:
Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:
+ “Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác”.
+ “Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà”
+ Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy: “Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uống hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
+ Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng.
“Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi”. “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng như thổi sáo”, “Tai Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”…
– Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:
+ Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: “Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm đến ngày trước”. “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: “Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết”…
+ Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
+ Hành động này đẩy tới hành động tiếp theo: Mị “quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”.
+ Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm không cho đi, hắn cột Mị vào nhà cột cả tóc lên khiến Mị không ngẩng đầu lên được đó là một hành động mất hết nhân tính, Mị vẫn đang du mình trong đêm xuân nhưng tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉnh giấc, nàng đã trở lại với hiện tại, một hiện tại đau khổ và phải chịu đau thương cả về thể xác lẫn tinh thần.
c. Tâm trạng và hành động của Mị trong hoàn cảnh cởi trói cứu A Phủ và chạy trốn theo A Phủ.
– Diễn biến tâm lí trong đêm đông:
+ Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay”, vì những cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thống lí thường xuyên.
+ Nhưng “Mị lé mắt trông sang… một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.
+ Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: “ở đây thì chết mất”.
+ Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.
2 – Trang 14 SGK
Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ. Bút pháp của nhà văn khi miêu tả Mị và nhân vật A Phủ có gì khác nhau ?
Trả lời:
a. Tính cách nhân vật A Phủ qua các tình huống:
– A Phủ mang tính cách ham chuộng tự do, một sức sống mãnh liệt, một tài năng lao động đáng quý: “biết đúc lưỡi, đúc cuốc, cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”. A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do, hồn nhiên, chất phác.
– A Phủ là một người mạnh mẽ, gan góc: “chạy vụt ra, vung tay ném con quay, xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo, xé, đánh tới tấp”. Hành động mạnh mẽ, quyết liệt ấy đã bộc lộ lòng căm thù kẻ cậy thế hống hách, yêu chuộng công lí và tính cách can trường, bất khuất.
– Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra các lỗ cửa sổ như khói bếp. “Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong lần lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm”. Còn A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.
Hủ tục và pháp luật trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra. Cảnh xử kiện lạ lùng và cảnh A Phủ bị đánh, bị trói vừa tố cáo sự tàn bạo của bọn chúa đất vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân.
b. Bút pháp miêu tả nhân vật
– Nhân vật Mị:
+ Nghệ thuật so sánh, thủ pháp vật hóa làm nổi bật, cực tả cuộc đời Mị: kiếp người là kiếp vật của Mị.
+ Cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo (căn buồng Mị ở) nói lên số phận bất hạnh của Mị.
– Nhân vật A Phủ: được tác giả khắc họa chủ yếu qua chuỗi hành động để từ đó làm bật lên tính cách táo bạo, gan góc và tinh thần phản kháng của chàng trai miền núi có tâm hồn yêu tự do, phóng khoáng.
3 – Trang 14 SGK
Những nét độc đáo về việc quan sát và miêu tả nếp sinh hoạt, phong tục tập quán của người dân miền núi. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ tác phẩm.
Trả lời:
– Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…).
– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.
– Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lí; dẫn dắt những tình tiết đan xen kết hợp một cách khéo léo tạo sức lôi cuốn.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Mỗi nhân vật được sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lí với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẫu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.
– Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.
Luyện tập
Câu hỏi: Qua số phận nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến về giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Trả lời:
Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện qua các khía cạnh sau.
– Sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với những cảnh ngộ của người dân miền núi cao Tây Bắc.
– Phát hiện sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do và hạnh phúc trong những con người nô lệ như Mị.
– Ca ngợi tình cảm đồng loại, tình cảm giai cấp trong những con người bị áp bức.
– Giúp nhân vật tìm đường đến với cách mạng và kháng chiến.
Bài soạn “Vợ chồng A Phủ” số 5
Câu 1 (trang 14 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Cảnh ngộ của nhân vật Mị:
– Trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra: Mị là cô gái xinh đẹp, hiếu thảo, yêu tự do. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị phải trở thành dâu gạt nợ nhà thống lí.
– Ở nhà thống lí: Mị bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần
+ Ban đầu: Đêm nào Mị cũng khóc => Sự phản kháng.
+ Sau này, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.
Nỗi khổ về thể xác: Mị là con trâu, con ngựa, thậm chí không bằng con trâu con ngựa, Mị làm việc như một cái máy.
=> Mị bị tước đoạt sức lao động một cách triệt để và trở thành công cụ lao động cho nhà Thống lí Pá Tra.
Nỗi khổ tinh thần: Mị không nói, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”…
=> Mị sống trong trạng thái vô cảm, trơ lì, chai sạn trước những đau khổ, mất hết ý thức về cuộc sống
* Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị:
Trong đêm tình mùa xuân:
– Những chất xúc tác khách quan khơi dậy tâm hồn Mị: thiên nhiên Hồng Ngài khi vào xuân, cảnh chuẩn bị đón tết, tiếng sáo gọi bạn, men rượu…
– Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị:
+ Mị nghe tiếng sáo Mị bỗng thấy tâm hồn như phơi phơi trở lại. Mị cũng uống rượu ngày tết, Mị uống ực từng bát như uống cho hết nỗi nhục số phận.
+ Mị nằm lại trong nhà nghe tiếng sáo thổi, Mị bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm ngày trước.
+ Nhưng rồi tự nhiên Mị thấy uất nếu như có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nghĩ nữa
=> Sức sống trong Mị đã hồi sinh.
+ Mị thấy mình còn trẻ và Mị muốn đi chơi.
+ Mị vào buồng thắp sáng đèn như thắp sáng chính cuộc đời mình vậy.
+ Mị với tay lấy chiếc váy hoa chải lại đầu tóc để đi chơi. Nhưng A Sử ngăn cản hành động đó của Mị.
+ A Sử buộc Mị vào cột giữa nhà cột cả tóc lên khiến Mị không thể cúi đầu được. Nhưng khi ấy Mị vẫn còn đang say sưa theo tiếng sáo, rồi bỗng chốc Mị nghe tiếng chân ngựa đạp mạnh vào vách Mị cựa quậy không xong. Mị lại đau khổ
Trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ:
– Mùa đông đến Mị thường dậy nửa đêm để hơ lưng hơ tay cho đỡ lạnh
– Khi ấy Mị bắt gặp A Phủ đang bị trói, ban đầu Mị dửng dưng không thấy gì vì cảnh tượng này trong nhà thống lý đã quá bình thường
– Nhưng rồi bắt gặp ánh mắt của A Phủ với hai dòng nước mắt lấp lánh. Mị thương người, thương mình. Mị quyết định cắt dây trói thả A Phủ đi. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ cũng chính là hành động cắt sợi dây trói vô hình của cuộc đời Mị ở nhà thống lí.
– Trong lúc sợ hãi Mị chạy theo A Phủ hướng đến cách mạng và sự tự do.
Câu 2 (trang 15 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Tính cách nhân vật A phủ
– Hoàn cảnh: A Phủ là đứa trẻ mồ côi, vì quá nghèo nên không thể lấy được vợ. A Phủ yêu tự do, năm mười tuổi bị đem bán xuống cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên vùng cao, lưu lạc đến Hồng Ngài. A Phủ khỏe mạnh, nhanh nhẹn, con gái trong làng nhiều người mê, có được A Phủ “cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà”
+ Khỏe khoắn, dũng cảm, căm ghét sự hống hách của A Sử: đánh nhau với A Sử.
+ Gan lì nhưng nhẫn nhục, cam chịu: “im như cái tượng đá” dù bị đánh đập dã man vì cuối cùng A Phủ cũng chỉ là một kẻ nghèo khổ, phải chịu đi ở gạt nợ cho thống lí.
+ Chăm chỉ, chất phác, vô tư: khi làm công gạt nợ cho thống lí, A Phủ làm phăng phăng mọi việc một cách tháo vát; mải bẫy nhím để hổ bắt mất bò…
* Điểm khác biệt khi miêu tả nhân vật Mị Và A Phủ:
– Nhân vật A Phủ được khắc họa chủ yếu qua ngoại hình, hành động
– Nhân vật Mị được khắc họa chủ yếu qua diễn biến tâm lí nhân vật
Câu 3 (trang 15 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Am hiểu sâu sắc, miêu tả sinh động sinh hoạt và phong tục của người Mèo ở Hồng Ngài:
+ Cứ gặt hái xong là ăn tết không kể ngày tháng nào; chuẩn bị đón Tết, con gái Mèo phơi váy hoa trên các mỏm đá, lũ trẻ chơi quay đùa nghịch trước nhà.
+ Cảnh ăn tết vui xuân của người Mèo: bữa cơm bữa rượu nối tiếp bên bếp lửa; trai gái đánh pao, đánh quay, thổi sáo rồi đêm đêm hẹn hò nhau đi chơi;
+ Phong tục cướp vợ, cúng trình ma.
+ Cảnh xử kiện lạc hậu, tàn bạo thời kì trước cách mạng của bọn thống lí tàn ác.
– Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với nhũng chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ (trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ… Đám trẻ con, chơi quay cười ầm trước sân nhà)
– Nghệ thuật dẫn truyện: tự nhiên, chân thực với ngôn ngữ mang đậm nếp cảm, nếp nghĩ, nếp diễn đạt của người dân miền núi.
Luyện tập
Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ:
– Bày tỏ niềm cảm thông, thương xót đối với nỗi khổ của người nông dân miền núi.
– Phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người nông dân, đặc biệt là ngợi ca sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
– Tố cáo tội ác của bọn phong kiến miền núi tàn bạo đã đẩy người dân vào bao nỗi thống khổ
– Hướng người lao động nghèo khổ đến con đường tươi sáng là tự giải phóng mình, tìm đến cách mạng và cầm súng chiến đấu chống lại kẻ thù.
Bố cục
Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến …bao giờ chết thì thôi) : Tâm trạng và hoàn cảnh sống của Mị.
– Phần 2 (tiếp theo đến …đánh nhau ở Hồng Ngài) : Hoàn cảnh của A Phủ.
– Phần 3 (còn lại) : Cuộc tự giải thoát của Mị và A Phủ.
Nội dung chính
Vợ chồng A Phủ là câu chuyện về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đầy đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối đã vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do.
Bài soạn “Vợ chồng A Phủ” số 6
I. Tác giả
– Tô Hoài (1920 – 2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê gốc ở Hà Tây, Hà Nội.
– Năm 1943, Tô Hoài gia nhập tổ chức văn hóa cứu quốc do Đảng Cộng Sản thành lập, đến thời kì kháng chiến chống Pháp, ông viết báo, hoạt động trong hội văn nghệ Việt Nam.
– Năm 1957, sau kháng chiến chống Pháp, ông tham gia tích cực trong hoạt động văn hóa, văn nghệ.
– Tô Hoài là một cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt Nam.
– Sáng tác của ông thể hiện hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là những phong tục và sinh hoạt đời thường.
– Tác phẩm tiêu biểu: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Truyện Tây Bắc (1953), Chuyện cũ Hà Nội, Cát bụi chân ai (1992).
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc năm 1953.
– Năm 1952, nhà văn có dịp đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, có điều kiện được sống và gắn bó với đồng bào dân tộc thiểu số của Tây Bắc, Tô Hoài có thêm những hiểu biết phong phú về cuộc sống, phong tục của con người nơi đây.
2. Bố cục
Gồm có 3 phần:
Phần 1: Từ đầu…. đến chết thì thôi
Nội dung: Tâm trạng và hoàn cảnh sống của Mị
Phần 2: tiếp theo…. đánh nhau ở Hồng Ngài
Nội dung: Hoàn cảnh của nhân vật A Phủ
Phần 3: Còn lại
Nội dung: Cuộc tự giải thoát của nhân vật Mị và A Phủ
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm
Câu 1 (Trang 14 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
Hoàn cảnh sống của Mị khi ở nhà Thống lí Bá Tra được tác giả miêu tả:
– Mị cưới A Sử không phải vì tình yêu mà vì cha mẹ Mị không thể trả nợ cho nhà Thống lí nên Mị phải chịu kiếp làm dâu gạt nợ
– Mị phải làm đi làm lại những công việc hằng ngày “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”
– Mị bị đối xử không khác gì con trâu, con bò “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”
– Mị đang dần bị vật hóa, hằng ngày Mị sống trong một căn buồng nhỏ xíu, nó tù túng và chật hẹp như cuộc đời của Mị vậy.
– Đã có lúc Mị muốn ăn lá ngón để chết nhưng nghĩ đến cha mẹ, Mị lại vứt lá ngón đi.
Tóm lại, hoàn cảnh của Mị được tác giả miêu tả hết sức đáng thương, sống một cuộc sống không có niềm vui và đầy khổ đau
Mị trong đêm tình mùa xuân
– Ta thấy được tâm hồn dường như đã chết của Mị được khơi dậy lại trong đêm tình mùa xuân.
– Mị thả lòng mình theo tiếng sáo, uống rượu thật say nhưng càng say Mị lại càng tỉnh
– Mị muốn đi chơi “quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa”
Nhà văn đã cho thấy cái khao khát được sống hạnh phúc mãnh liệt của Mị, rằng dù phải chịu khổ cực đến như thế nào thì con người ta vẫn có quyền được sống hạnh phúc, được khao khát về một cuộc đời tươi sáng hơn.
Câu 2 (Trang 14 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
Nhân vật A Phủ:
– A Phủ là một chàng trai mồ côi khỏe mạnh, cần cù chịu khó. Do đánh ngã A Sử, con quan thống lí nên A Phủ bị thống lí Bá Tra bắt phạt vạ. Cuối cùng, làng xử phạt A Phủ một trăm đồng bạc trắng. Không có tiền nộp, anh phải làm con trâu, con ngựa cho nhà Bá Tra để trừ nợ.
– Anh phải lao động nặng nhọc vất vả. Đề hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí trói vào cọc.
– Nét khác biệt trong nghệ thuật khắc họa nhân vật ở Mị và A Phủ chính là: A Phủ được tác giả nhìn từ bên ngoài, tạo điểm nhấn về tính cách ở những hành động, giúp ta thấy rõ vẻ đẹp của A Phủ qua tính cách gan góc, táo bạo, mạnh mẽ.
Câu 3 (Trang 14 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
Nghệ thuật của tác phẩm:
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật : Khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét. Hai nhân vật Mị và A Phủ có số phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau đã được tác giả thể hiện bằng bút pháp thích hợp.
– Ngòi bút tả cảnH đặc sắc: (Cảnh tết, cảnh xử kiện…)
– Nghệ thuật trần thuật rất thành công với giọng kể trầm lắng đầy cảm thông, yêu mến, nhịp kể chậm rãi, xúc động, có khi hòa vào dòng tâm tư của nhân vật, vừa bộc lộ nội tâm của nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm.- Ngôn ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.