Top 6 Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà lớp 11 hay nhất

Tác phẩm “Hầu trời” của Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu in trong tập thơ “Còn chơi”, xuất bản năm 1921. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện cái tôi cá nhân ngông ngạo, … xem thêm…phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khát vọng được khẳng định giữa cuộc đời. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất đã được Blogthoca.edu.vn tổng hợp lại trong bài viết dưới đây để thấy rõ hơn nội dung này.

Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà số 1

Bố cục: gồm 3 phần

Phần 1 ( khổ thơ đầu): giới thiệu về chuyện lên hầu trời

Phần 2 ( tiếp… chợ Trời) thi nhân ngâm thơ cho Trời và chư tiên trên thiên đình nghe

Phần 3 (còn lại) Cuộc trò chuyện của thi nhân với trời

Câu 1 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Khổ thơ đầu mở ra giấc mơ của chính tác giả, câu thơ đầu tiên nghe như tác giả đặt vấn đề có vẻ khách quan: câu chuyện tôi sắp kể “chẳng biết có hay không”

Cách “nhập đề” lạ, một sự “hư cấu” nghệ thuật.

Nó là cớ để nhân vật bộc lộ được cảm xúc trong “cõi mộng”

– Cách vào đề gợi được sự thích thú, tò mò, dường như rất có duyên đối với người đọc

Câu 2 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Thi nhân đọc thơ trong sự hào hứng, có phần tự đắc:

Đương cơn tự đắc đọc đã thích

Trời nghe, trời cũng lấy làm hay

Chửa biết con in ra mấy mươi

– Giọng của thi nhân truyền cảm, hóm hỉnh, sảng khoái, cuốn hút

Thái độ của chư tiên khi nghe Tản Đà đọc thơ:

– Trời khen nhiệt thành: văn thật tuyệt, chắc có ít, đẹp như sao băng…

– Chư tiên xúc động, tán thưởng và hâm mộ: Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

+ Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

+ Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai nghe

→ Tản Đà là người “ngông” khi lên lên Trời khẳng định tài năng thơ văn của mình.

– Nhà thơ ý thức về tài năng, thơ văn của mình, dám thể hiện cái tài đó

– Đó là phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, tâm hồn không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, sự đơn điệu, nên thường tự đề cao, phóng đại cá tính của mình

– Giọng thơ của Tản Đà cũng thể hiện niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới rẻ như bèo, thân phận bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ

– Giọng kể của tác giả: đa dạng, hóm hỉnh có phần ngôn nghênh, tự đắc

Khác với thơ ca trung đại có tính phi ngã thì trong thơ của Tản Đà có tính phi ngã

Câu 3 (Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Cảm hứng lãng mạn có một đoạn hiện thực, đó là đoạn:

Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó

Biết làm có được mà dám theo

– Bẩm với trời về cảnh nghèo khó, vất vả của nghề viết văn dưới hạ giới

– Ý nghĩa đoạn thơ:

+ Đoạn thơ là bức tranh hiện thực về chính cuộc đời của tác giả, nhiều nhà văn khác

+ Tiếp sau đoạn thơ là tâm trạng của tác giả, khiến người đọc xót xa, ngậm ngùi trước cuộc sống cơ cực của lớp nhà văn trong chế độ cũ

Câu 4 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ

– Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu nào

– Ngôn từ: hóm hỉnh, hài hước, có duyên và lôi cuốn

– Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng khoáng

Tác giả miêu tả Trời và Chư tiên không có chút đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộc lộ cảm xúc ngộ nghĩnh, bình dân ( lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn…)

LUYỆN TẬP

Bài 1 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

Câu thơ hay trong bài gây ấn tượng: “Con không nói Trời đã biết/ Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết/ Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

Đây cũng chính là ước nguyện của tác giả Tản Đà, được thấu hiểu, cảm thông. Lòng khi đã thông tường, mọi chuyện sương gió không còn ngại ngùng.

Bài 2 (trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2):

“Ngông” để chỉ sự khác thường, “ngông” trong văn chương để chỉ một kiểu ứng xử xã hội, nghệ thuật khác thói quen thường có ở nhà văn

Điều này bắt nguồn từ việc tác giả ý thức được cái tôi, tài năng, nhân cách của bản thân.

Các tác giả có cái “ngông” như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà…

Cái “Ngông” của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở:

+ Tự cho mình văn hay tới mức Trời phải tán thưởng

+ Tìm thấy sự đồng điệu, thu hiểu từ Trời và Chư tiên

+ Xem mình là một “trích tiên” bị đày vì tội ngông

+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành “thiên lương” một sứ mệnh cao cả

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà số 2

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Tản Đà (1889 -1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay Ba Vì, Hà Nội). Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh).

– Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn. Các tác phẩm chính của Tản Đà: Khối tình con I, II (thơ – 1916, 1918), Giấc mộng con I, II (truyện phiêu lưu viễn tưởng – 1916, 1932), Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết – 1918), Còn chơi (thơ và văn xuôi – 1921, Thơ Tản Đà (1925),Giấc mộng lớn (tự truyện – 1928),…

– Phong cách thơ: Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, vừa ngông nghênh, vừa cảm thương, vừa ưu ái,..Thơ văn ông có thể xem như là một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

2. Tác phẩm:

bài Hầu trời in trong tập Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921.

Bố cục: 4 phần

+ Đoạn 1 (Câu 1- 20): Lí do, hoàn cảnh được lên đọc thơ hầu Trời

+ Đoạn 2 (Câu 21 – 68):Kể về buổi đọc thơ cho Trời và chư tiên

+ Đoạn 3 (Câu 68 -98): Tâm sự của nhà thơ với Trời về hoàn cảnh khốn khó của mình

+ Đoạn 4 (Còn lại): Phút tiễn biệt Trời, về lại thực tại


Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Phân tích khổ đầu:

– Thời gian: đêm qua

– Không gian: Tĩnh lăng, yên tĩnh.

– Điệp từ “thật”.

– Câu cảm thán: Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể .

→ Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, bất ngờ.

=> Bốn câu thơ đầu là câu chuyện kể lại về một giấc mơ được lên cõi tiên.

Cách vào đề của bài thơ gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò cho người đọc. Cách vào chuyện như vậy vừa độc đáo, vừa có duyên là cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn, hấp dẫn.


Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

– Thái độ của tác giả khi đọc thơ cho trời và chư tiên: thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc:

Đọc hết văn vần lại văn xuôi

Hết văn lý thuyết lại văn chơi

– Thi nhân kể tường tận, chi tiết về những tác phẩm của mình:

Hai quyển khối tình văn lí thuyết

Hai khối tình con là văn chơi

Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết

– Chư tiên nghe thơ xúc động, ngưỡng mộ tài năng của tác giả:

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay

– Thái độ của Trời khen rất nhiệt thành:

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

…..

– Đoạn thơ thể hiện rất rõ cá tính của thi sĩ. Tản Đà đã ý thức rất rõ về tài năng của mình và cũng rất táo bạo, bộc lộ “cái tôi” đó. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng. Đây cũng là niềm khát khao trân thành trong lòng thi sĩ. Bởi giữa chốn hạ giới, văn chương lúc này không được coi trọng, “giá rẻ như bèo” nên Tản Đà chỉ còn biết lên tận trời để than vãn, để khẳng định và bộc lộ tài năng của bản thân.

– Giọng đọc: Hóm hỉnh, ngông nghênh và có phần tự đắc.

Câu 3 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Đoạn thơ rất hiện thực trong bài:

Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

[…]

Sức trong non yếu ngoài che rấp

Một cây che chống bốn năm chiều.

Đoạn thơ nói lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và của những văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống cơ cực, vất vả, nghèo khó, làm chẳng đủ ăn… Bởi vậy dễ hiểu vì sao ông tìm lên đến tận trời để than vãn, để thỏa niềm khao khát, ước mơ của mình.

Là nhà văn giàu cảm hứng lãng mạn nhưng ông vẫn không thoát li khỏi cuộc đời, vẫn khao khát được khẳng định tài năng của mình. Hai cảm hứng này đan cài khăng khít và không tách biệt trong sáng tác của nhà văn.

Câu 4 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Đặc sắc về nghệ thuật

– Thể loại: thể thơ thất ngôn trường thiên tự do.

– Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế, rất gần với đời thường.

– Cách kể chuyện hóm hỉnh, lôi cuốn người đọc.

– Cảm xúc bộc lộ tự nhiên, phóng túng, tự do.

Luyện tập

Câu 1 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Cảm nhận về câu thơ mà mình thích nhất để thấy được phong cách thơ của Tản Đà.

Câu thơ hay trong bài gây ấn tượng: “Con không nói Trời đã biết/ Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết/ Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

Đây cũng chính là ước nguyện của tác giả Tản Đà, được thấu hiểu, cảm thông. Lòng khi đã thông tường, mọi chuyện sương gió không còn ngại ngùng.

Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

“Ngông” trong văn chương chỉ sự khác thường. Đó là phản ứng của những người nghệ sĩ tài hoa, cá tính, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp, sống phóng túng, tự do, khẳng định cá tính và bản lĩnh của mình.

Cái “ngông” của thi sĩ Tản đà trong bài thơ được biểu hiện qua:

– Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài tài năng của mình: tự cho mình văn hay đến mức trời và chư tiên cũng phải tán thưởng…

– Xem mình là một trích tiên bị đày xuống vì tội ngông.

– Nhận mình là người nhà trời, được sai xuống để thực hiện sứ mệnh cao cả…

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà số 3

Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

I. Tác giả

1. Cuộc đời

– Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Bất Bạt, Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì, Hà Tây).

– Xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo lối sống của tầng lớp tư sản thành thị.

– Ông học chữ Hán hồi nhỏ, nhưng sớm chuyển sang học chữ quốc ngữ và sáng tác văn chương bằng chữ quốc ngữ.

– Tản Đà theo đuổi nghiệp khoa cử nhưng không thành. Ông sống với nghề viết văn. Cả cuộc đời ông là một bài thơ tuyệt đẹp vì con người ngoài đời dường như trùng lặp hoàn toàn với con người nghệ sĩ trong văn chương.

2. Sự nghiệp sáng tác

– Sự nghiệp thơ văn của Tản Đà rất phong phú và đạt nhiều thành tựu, đáng kể nhất là các tác phẩm: Khối tình con I, II (1916,1918), Còn chơi (1921), Thơ Tản Đà (1925), Giấc mộng lớn (1928),…

3. Phong cách nghệ thuật

– Thơ văn Tản Đà thể hiện một cái tôi bay bổng, lãng mạn, thoát li rất tài hoa nhưng cũng rất ngông nghênh, ngạo nghễ.

– Thơ ông còn thấm đẫm tinh thần thơ ca dân tộc, đậm đà và ý nhị, tinh tế.

– Có thể xem thơ Tản Đà là cái gạch nối giữa thơ trung đại và hiện đại.


II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh xuất xứ

– Bài thơ Hầu trời in trong tập Còn chơi xuất bản năm 1921.

– Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạn đã khá đậm nét trong văn chương thời đại. Xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau…

2. Nội dung chính

– “Hầu trời” của Tản Đà kể về chuyện ông được lên tiên để đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và văn nghệ sĩ đương thời nói chung.

3. Bố cục

Bài thơ có thể chia làm 3 phần:

– Phần 1 (khổ thơ đầu): giới thiệu về câu chuyện lên hầu trời.

– Phần 2 (tiếp… chợ Trời): thi nhân ngâm thơ cho Trời và chư tiên trên thiên đình nghe.

– Phần 3 (còn lại): Cuộc trò chuyện của thi nhân với trời.

4. Một số ý kiến nhận định về Tản Đà và bài Hầu trời

– …Tiên sinh đã cùng chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát li ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo. Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn hai mươi năm trước đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đang sắp sửa.”…

(Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân Việt Nam – NXB Văn học, Hà Nội, 1986)

– Bài Hầu trời, tôi phục nhất đoạn mở:

Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng!

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng!

Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”…

(Xuân Diệu – Lời giới thiệu – Tuyển tập Tản Đà – NXB Văn học, Hà Nội 1986)

Đọc – hiểu văn bản

Câu 1 – Trang 17 SGK

Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?

Trả lời:

Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng “chẳng biết có hay không”. Đó là một cách “nhập đề” lạ, một sự “hư cấu” nghệ thuật. Nó là cái cớ “hoàn hảo” để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong “cõi mộng” của mình. Cách vào đề như thế đã gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò của người đọc, vừa độc đáo, lại rất có duyên.

Tản Đà sử dụng hình thức câu khẳng định trong ba câu cuối khổ thơ đầu nhằm mục đích khẳng định việc lên tiên là sự thực, không phải là giấc mơ. Bằng cách vào đầu như thế tác giả đã gợi trí tò mò của người đọc bằng việc đan xen giữa hư và thực, giữa mộng và tỉnh. Nhờ đó, câu chuyện trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt, không ai có thể bỏ qua.


Câu 2 – Trang 17 SGK

Tác giả đã kể lại chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe như thế nào? (Thái độ của tác giả, của chư tiên và những lời khen của Trời.) Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ? Nhận xét về giọng kể của tác giả.

Trả lời:

Câu chuyện chính trong “giấc mơ” của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc (Đương cơn đắc ý đọc đã thích… – Văn dài hơi tốt ran cung mây!- Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay… – Chửa biết con in ra mấy mươi? – Văn đã giàu thay, lại lắm lối…).

Chư Tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tản Đà (Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi – Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày – Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng – Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay).

Ông Trời thì khen rất nhiệt thành:

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tình như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

Để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa. Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã “cái tôi” đó. Tản Đà rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện. Vào đầu những năm 20, khi thơ phú nhà nho tàn cuộc mà thơ mới chưa ra đời, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên trong văn học Việt Nam đã dám mạnh dạn hiện diện bản ngã “cái tôi” đó. Giọng kể của Tản Đà rất phong phú, hóm hỉnh và có phần ngông nghênh, tự đắc.


Câu 3 – Trang 17 SGK

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào?

Trả lời:

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực, đó là đoạn:

“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

[…]

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều”.

Tản Đà là một nhà thơ giàu cảm hứng lãng mạn. Thế nhưng trong đoạn thơ này, nhà thơ lại nói đến nhiệm vụ truyền bá “thiên lương” mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó đã chứng tỏ, Tản Đà lãng mạn, nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách khẳng định mình. Xúc động nhất trong đoạn thơ có lẽ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và cuộc đời của nhiều văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ (không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn, bị o ép nhiều chiều,…). Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà. Là một thi sĩ nổi tiếng tài hoa, thế nhưng gần như suốt đời, Tản Đà sống trong nghèo khổ, túng quẫn. Ông đã từng rơi vào cảnh:

Hôm qua chửa có tiền nhà

Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào

Đi ra rồi lại đi vào

Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ

Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng sách nát và một be rượu.

Bức tranh hiện thực miêu tả trong bài thơ đã giúp chúng ta thêm hiểu vì sao Tản Đà thấy đời đáng chán (Trần thế nay em chán nửa rồi), vì sao ông phải tìm cõi tri âm tận trời cao (Tri kỉ trông lên đứng tận trời), phải tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng Thượng đế, chư tiên,… để thỏa niềm khao khát. Hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực thường đan cài khăng khít trong thơ ông như thế.


Câu 4 – Trang 17 SGK

Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật,…)

Trả lời:

Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.

– Tản Đà không dùng các thể thơ cũ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt lục bát, song thất lục bát… mà dùng thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ như thơ trung đại.

– Giọng thơ khá linh hoạt giọng kể mang tính tự sự phối hợp với giọng trữ tình nhiều sắc điệu, khi hóm hỉnh hài hước, lúc sôi nổi phóng khoáng, khi lại ngậm ngùi chua chát. Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.

– Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.

Những tìm tòi nghệ thuật trên đây là hướng đi đúng đắn của Tản Đà để tự khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần tới dấu chấm hết.

Luyện tập

Câu 1 – Trang 17 SGK

Bài Hầu trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh (chị) thích thú nhất? Hãy viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.

Trả lời:

Tùy theo cảm nhận và tình cảm cá nhân mà học sinh có thể lựa chọn những câu thơ, ý tưởng thơ thú vị. Có thể tham khảo một số câu thơ, ý tưởng sau: “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông”. “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:/ “Anh gánh lên đây bán chợ Trời” …


Câu 2* – Trang 17 SGK

Anh (chị) hiểu thế nào là “ngông”? Cái “ngông” trong văn chương thường bộc lộ một thái độ sống như thế nào? (Có thể dẫn chứng qua những tác phẩm đã học). Cái “ngông” của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm nào và có thể giải thích ra sao?

Trả lời:

– “Ngông” chỉ sự khác thường. “Ngông” trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ.

– Trong văn chương người ta hay nhắc đến cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tuân, Tản Đà,…

– Cái “ngông” của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm:

+ Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.

+ Không thấy ai đáng là tri âm với mình ngoài Trời và Chư tiên.

+ Xem mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành “thiên lương”, một sứ mệnh cao cả.

+ Xem các đấng siêu nhiên là tri âm, bình dân,…

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà số 4

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả:

Tản Đà (1889 -1939): là “con người của hai thế kỉ”, tên thật Nguyễn Khắc Hiếu.
Quê hương: làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội). Bút danh Tản Đà được ghép từ núi Tản sông Đà quê hương ông.
Sự nghiệp:
Từ nhỏ học chữ Hán, sau hai khóa thi Hương hỏng, ông bỏ thi chuyển sang văn chương quốc ngữ.
Các tác phẩm tiêu biểu: Khối tình con, Giấc mộng con, Còn chơi…nhiều thể loại sáng tác rất phong phú và đa dạng.
Ngòi bút của ông thể hiện cái ngông nghênh, phóng khoáng của cá nhân.


2. Tóm tắt tác phẩm:

“Hầu trời” là bài thơ được in trong tập thơ Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921. Vào những năm đầu của thế kỉ XX, lãng mạn trở thành những khúc thơ tâm tình của những người tri thức, bấy giờ xã hội thực dân phong kiến lại đầy những u hám, tối tăm và bất công. Người trí thức muốn chống lại song cũng chưa ai có dũng khí để làm, nhà thơ Tản Đà đã sáng tác bài thơ này để thể hiện tấm lòng của mình. Qua bài thơ Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi cá nhân ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời. Bài thơ kể về việc Tản Đà được mời lên thiên đình đọc thơ cho trời và chư tiên cùng nghe, cuộc đọc thơ và đối thọai về trời. Với thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái tự nhiên, ngôn từ bình dân, sống động tác phẩm đã đi vào lòng bạn đọc, chinh phục mọi độc giả khó tính.


B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2

Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?

Bài làm:
Câu thơ đầu tiên tác giả đặt vấn đề khách quan: Câu chuyện tôi sắp kể “chẳng biết có hay không”. Chắc chắn người nghe thì cho là bịa đặt nhưng tác giả lại khẳng định mình ở trong trạng thái rất bình thường “Chẳng hoảng hốt, không mơ màng” và câu chuyện có vẻ là thật:
“Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể !
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.”
Điệp từ “Thật” kết hợp với hàng loạt dấu cảm khẳng định độ chân thật của câu chuyện của tác giả sắp kể.
Cách vào đề gây được mối nghi vấn để gợi trí tò mò ở người đọc, tạo sự hấp dẫn, muốn được nghe câu chuyện được kể sẽ diễn ra như thế nào.

Câu 2: Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2
Tác giả đã kể lại câu chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe như thế nào? Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ? Nhận xét về giọng kể của tác giả.
Bài làm:
Thái độ của thi sĩ:
“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn lý thuyết lại văn chơi”
Thi sĩ rất cao hứng đọc văn đọc từ “văn vần” sang “văn xuôi”… cùng đó lại rất đắc ý nên càng đọc thì “văn dài thơ tốt ran cung mây !” càng đọc càng có cảm hứng, càng có cảm xúc nên đọc lại càng hay,kể tường tận từng chi tiết về các tác phẩm của mình. Giọng đọc thơ của thi nhân vừa truyền cảm, vừa hóm hỉnh, vừa sảng khoái, cuốn hút người nghe.
Thái độ của chư tiên được miêu tả bằng các từ ngữ bộc lộ đa dạng cảm xúc như: nở dạ, lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tai đứng, ao ước, tranh nhau dặn…đều thể hiện sự thích thú, hâm mộ, phâm phục, tâm đắc của chư tiên với thi sĩ.
Những lời khen của Trời:
” Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển !”
Cho thấy Trời không tiếc lời khen thơ của thi sĩ, đánh giá cao “văn trần được thế chắc có ít !” không tiếc lời tán thưởng cho thi sĩ.
Cảm nhận về cá tính,niềm khao khát chân thành của thi sĩ qua đoạn thơ:
Một con người có cá tính rất “ngông”: ở cõi trần thân phận nhà văn bị khinh bị, xem thường, văn chương “rẻ như bèo”, Tản Đà tìm đến tận Trời để khẳng định tài năng của mình.
Một con người có ý thức về cá nhân rất cao, dám tự mình khen mình (Trời và Chư tiên tán thưởng thơ Tản Đà, đó chính là nhà thơ tự tán thưởng). Đây không phải là sự tự kiêu, thiếu khiêm tốn trong cái nhìn vốn khiêm cung của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Nhưng đây, chính là cái thật, là cá nhân ý thức được tài năng thực sự của mình.
Giọng kể của tác giả hào hứng, phấn chấn, tự hào.

Câu 3: Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực.Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản đà có mối liên hệ với nhau như thế nào?
Bài làm:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thi sĩ Tản Đà kể cho Trời nghe về tình cảm khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ:
“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
….
Biết làm có được mà giám theo.”
Trong đoạn thơ này tác giả đã đề cập đến cuộc sống hiện thực của mình: “thước đất cũng không có”, “văn chương hạ giới rẻ như bèo”, …cuộc sống của thi sĩ thực nghèo khó, đến tấc đất cũng không có. Thi sĩ chỉ có “một bụng văn” tuy nhiên lại rẻ như bèo nên làm quanh năm cũng không đủ tiêu, lại bị o ép đủ điều. Cuộc sống của thi sĩ thật khó khăn, nghèo túng.
Trong bài thơ này tác giả sử dụng kết hợp hoàn chỉnh giữa cảm hứng lãng mạn với hiện thực, cho người đọc thấy một bức tranh toàn cảnh cuộc sống vừa có chất thơ mà lại vô cùng chân thực, vô cùng đời thường.Qua đó ta thấy cuộc sống qua nhiều mặt, vừa hiểu hơn tâm hồn người thi sĩ, trong xã hội như vậy mà vẫn ngông cuồng, vẫn rất “thơ”.

Câu 4: Trang 17 sgk ngữ văn 11 tập 2
Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay?
Bài làm:
Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ:
Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị trói buộc bởi khuôn mẫu nào.
Ngôn từ: hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng túng.
Dưới ngòi bút của tác giả, Trời và Chư tiên không có một chút gì đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộc lộ cảm xúc rất ngộ nghĩnh, bình dân (lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn…)

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà số 5

I. Đôi nét về tác giả Tản Đà
– Tản Đà (1889- 1939) tên khi sinh là Nguyễn Khắc Hiếu
– Ông sinh ra và lớn lên trong thời buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống, sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn người của hai thế kỉ
– Ông học Hán học từ nhỏ nhưng sau hai khóa thi Hương ông bỏ thi chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ
– Các tác phẩm chính:
+ thơ: Khối tình con I, II
+ truyện viễn tưởng: Giấc mộng con I, II
+ luận thuyết: Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ
+ thơ và văn xuôi: Còn chơi
+ tự truyện: Giấc mộng lớn, Thơ Tản Đà
– Phong cách nghệ thuật:
+ điệu tâm hồn mới mẻ, cái tôi lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh vừa cảm thương, ưu ái
+ có lối đi riêng vừa tìm về ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa
+ thơ văn ông chính là gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại

II. Đôi nét về tác phẩm Hầu trời (Tản Đà)
1. Xuất xứ
– In trong tập thơ Còn chơi, xuất bản năm 1921
2. Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến sướng lạ lùng): Giới thiệu về câu chuyện
– Phần 2 (tiếp đến Anh gánh lên đây bán chợ trời): Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
– Phần 3 (còn lại) : Thi nhân trò chuyện với trời.
3. Giá trị nội dung
– Qua bài thơ tác giả dã thể hiện cái tôi cá nhân ngông ngạo, phóng túng, tư ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khát vọng được khẳng định giữa cuộc đời
4. Giá trị nghệ thuật
– Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật: thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, giọng điệu thoải mái tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, sống động, hóm hỉnh


III. Trả lời câu hỏi

Câu 1:

* Cách vào đề bài thơ:

– Khổ thơ mở đầu 4 câu có tác dụng gây nghi vấn, gợi sự tò mò : Chuyện có vẻ như mộng mơ, bịa đặt “chẳng biết có hay không”, nhưng dường như lại là thật:

– Điệp từ “thật”: 4 lần / 2 câu;

– Câu cảm thán, ngắt nhịp 2/2/3: khẳng định chắc chắn, củng cố niềm tin, gây ấn tượng là chuyện có thật hoàn toàn:

⟹ Như vậy, cách vào chuyện thật độc đáo và có duyên, tạo được sự tò mò, chú ý cuốn hút người đọc về câu chuyện lên tiên của mình


Câu 2:

Cảnh đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe:

* Thái độ của tác giả khi đọc thơ:

– Thi sĩ đọc rất nhiệt tình, cao hứng và có phần tự hào, tự đắc vì thơ văn của chính mình: Đương cơn đắc ý, đọc thơ ran cung mây

– Tác giả có nhu cầu muốn đọc hết cho Trời và chư tiên nghe những tác phẩm văn chương, những đứa con tinh thần của mình. Tự đắc, tự khen: Văn đã giàu thay lại lắm lối…

– Giọng đọc thơ của thi nhân vừa truyền cảm, vừa hóm hỉnh, vừa sảng khoái, cuốn hút người nghe.

⟹ Cá tính thơ và niềm khát khao chân thành của người thi sĩ:

– Tản Đà rất ý thức về tài năng của mình và ông cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi của mình. Những câu thơ đó như đã cực tả niềm tự hào, tự nhận thức của nhà thơ về tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình. Ông cũng rất ngông khi tìm đến tận Trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng và chư tiên

– Niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

* Thái độ của trời và chư tiên khi nghe thơ: phản ứng chung: rất xúc động; tán thưởng và hâm mộ: cùng vỗ tay:

+ Thái độ của Trời:

– Đánh giá cao;

– Không tiếc lời tán dương:

“Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt !

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng !

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển !

Êm như gió thoảng, tinh như sương !

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết !”

+ Chư tiên nghe thơ rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ:

“Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong một bài cùng vỗ tay

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

Anh gánh lên đây bán chợ Trời ! ”

⟹ Như vậy, Tản Đà muốn khẳng định giá trị văn chương của mình. Ông muốn văn chương của mình được nhiều người yêu thích, biết đến và trân trọng.

Câu 3:

Tản Đã đã phản ánh rất chân thực và cảm động về cuộc sống của mình cũng như tầng lớp văn nghệ sĩ đương thời:

“Bẩm Trời cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

….

Biết làm có được mà dám theo”.

– Tản Đà không chỉ muốn thoát li cuộc đời bằng những cuộc mơ ước lên trăng, lên tiên. Ông đã vẽ bức tranh hiện thực về chính cuộc đời tác giả, cũng như bao nhà văn khác. Họ vẫn sống và viết cho đến chết giữa cuộc đời nghèo khổ. Tản Đà tài năng là thế, ý thức về trách nhiệm sâu sắc là thế, song xã hội thực dân nửa phong kiến đã cướp đi của ông tất cả: không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, bị o ép nhiều chiều,… Qua đó, nhà thơ còn lên án xã hội bất công đã đẩy họ vào những tình huống bi đát nhất

– Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về văn và nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau câu chữ, ta vẫn thấy một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này.

+ Dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải trường vốn để theo đuổi nó dài dài

+ Trong mắt Tản Đà, văn chương lúc này là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều

+ Tản Đà cũng chớm nhận ra: đa dạng về thể loại là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác và với những sáng tác mới thì tiêu chí đánh giá tất nhiên là phải khác xưa

Câu 4:

Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ là:

– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do.

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần gũi với đời sống, không cách điệu, ước lệ.

– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên và lôi cuốn người đọc

– Từ ngữ nôm na, bình dị, như lấy ở đời sống bình thường.

– Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.

– Nhà thơ đã sáng tạo ra một cuộc hầu Trời thật lí thú, ngộ nghĩnh mà như thật.

LUYỆN TẬP:

CÂU 1:

Cách xưng danh của tác giả:

– Tác giả đã tâu trình rõ ràng về họ tên, xuất xứ của mình cho Trời nghe.

“Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á châu về Địa Cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

Tác giả đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh,…

– Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng trí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ.

– Tác giả còn kiêu hãnh khi khai mình là đứa con đích thực của sông Đà núi Tản nước Nam Việt. Đồng thời qua đó, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà – một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.

– Cách nói của nhà thơ không chỉ là cách nói của ý thức cá nhân, của cái ngông mà còn chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm yêu nước đáng quý.

– Những trường hợp xưng danh trong thơ thời văn học trung đại: Mời trầu – Hồ Xuân Hương, Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du, Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ

CÂU 2:

– “Ngông” chỉ sự khác thường. “Ngông” trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ.

– Trong bài Hầu Trời, cái ngông của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:

+ Tự cho mình văn

+ Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình ngoài Trời và chư tiên.

+ Xem mình là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông.

+ Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả

+ Ngoài ra, việc nhà thơ bịa ra chuyện hầu Trời.

– Tản Đà không phải trường hợp ngông cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đều ngông.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Hầu trời” của Tản Đà số 6

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Quê hương ông nằm bên sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Bút danh Tản Đà là tên ghép của hai địa danh ấy.

Tản Đà mang đầy đủ tính chất “con người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh), kể cả về học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến nhưng lại sống theo phương thức của tầng lớp tiểu tư sản thành thị “Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu”; học chữ Hán từ nhỏ nhưng lại sớm chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ và rất ham học hỏi để tiến kịp thời đại; là nhà nho nhưng ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Sáng tác văn chương của Tản Đà chủ yếu vần theo các thể loại cũ nhưng nguồn cảm xúc lại rất mới mẻ… Điều đó anh hưởng không nhỏ đến cá tính sáng tạo của thi sĩ. Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng chói trên thi đàn.

Điệu tâm hồn mới mẻ, “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn Tản Đà đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc vừa có sức sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn ông có thể xem như một cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

2. Thơ Tản Đà hay nói về cảnh trời. Điều đó đã trở thành mô tip nghệ thuật có tính hệ thống trong thơ ông. Ông tự coi mình là một trích tiên, tức là vị tiên trên trời bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Có lúc tỏ ra chán đời, ông Muốn làm thằng cuội để cùng chị Hằng “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. Có lúc mơ màng ông muốn theo gót Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc bước vào chốn Thiên Thai. Táo bạo hơn, ông còn mơ thấy mình được lên Thiên đình, hội ngộ với những mĩ nhân cổ kim như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi, cùng đàm đạo văn chương, chuyện thế sự với các bậc tiền bối như Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên, Đoàn Thị Điểm. Hồ Xuân Hương,… thậm chí cả với cụ Khổng Tử,… Ông còn Viết thư hỏi Giời và bị Giời mắng,… Bài Hầu Trời là một khoảnh khắc trong chuỗi cảm hứng đầy lãng mạn đó.

Bài thơ ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau. Người trí thức có lương tri không thể không chấp nhận nhập cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu. Thơ Tản Đà thời này “đã nói lên đúng cái sầu bàng bạc trong đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta” (Xuân Diệu). Nhưng Tản Đà khác người ở chỗ, ngay từ đầu những năm 20 đã dám mạnh dạn thể hiện bản ngã “cái tôi” của mình với “cái buồn mơ màng, cái cảm xúc chơi vơi” (Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha đi tìm một cõi tri âm để có thể khẳng định tài năng, phẩm giá đích thực của mình, bởi chẳng thể nào trông đợi ở “cõi trần nhem nhuốc bao nhiêu sự” này. Cái ngông của Tản Đà cũng là ở đó.

3. Qua câu chuyện Hầu Trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân – một “cái tôi” ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực cúa mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Câu 1. Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có duyên của Tản Đà:

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng “chẳng biết có hay không”. Đó là một cách “nhập đề” lạ, một sự “hư cấu” nghệ thuật. Nó là cái cớ “hoàn hảo” để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong “cõi mộng” của mình.

Cách vào đề như thế đã gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò của người đọc. Cách vào chuyện như thế vừa độc đáo, lại rất có duyên.


Câu 2. Câu chuyện chính trong “giấc mơ” của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc (Đương cơn đắc ý đọc đã thích… – Văn dài hơi tốt ran cung mây! – Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay… – Chửa biết con in ra mấy mươi? – Văn đã giàu thay, lại lắm lối…).

Chư tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tàn Đà (Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi – Hằng Nga, Chức Nữ chau đòi mày – Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng – Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay).

Ông Trời thì khen rất nhiệt thành:

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa.

Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã “cái tôi” đó. Tản Đà rất ngông khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ tri âm, phải lên tận cõi tiên này mới có thể thoả nguyện. Vào đầu những năm 20, khi thơ phú nhà nho tàn cuộc mà thơ mới chưa ra đời, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên trong văn học Việt Nam đã dám mạnh dạn hiện diện bản ngã “cái tôi” đó.

Giọng kể của Tản Đà rất phong phú, hóm hỉnh và có phần ngông nghênh, tự đắc.


Câu 3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực, đó là đoạn:

“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

[…]

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều”.

Tản Đà là một nhà thơ giàu cảm hứng lãng mạn. Thế nhưng trong đoạn thơ này, nhà thơ lại nói đến nhiệm vụ truyền bá “thiên lương” mà Trời trao cho ông như là một thiên chức vậy. Điều đó đã chứng tỏ, Tản Đà lãng mạn, nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đó cũng là một cách khẳng định mình.

Xúc động nhất trong đoạn thơ có lẽ chính là những câu thơ vẽ lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và cuộc đời của nhiều văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ (không tấc đất cắm dùi, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đù ăn, bị o ép nhiều chiều….). Những câu thơ không hề cường điệu. Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà. Là một thi sĩ nổi tiếng tài hoa, thế nhưng gần như suốt đời, Tản Đà sống trong nghèo khổ, túng quẫn, ông đã từng rơi vào cảnh:

Hôm qua chửa có tiền nhà

Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào

Đi ra rồi lại đi vào

Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ

Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chi còn một cái giường mọt, cái ghế ba chân, chồng sách nát và một be rượu.

Bức tranh hiện thực miêu tả trong bài thơ đã giúp chúng ta thêm hiểu vì sao Tản Đà thấy đời đáng chán (Trần thế nay em chán nửa rồi), vì sao ông phải tìm cõi tri âm tận trời cao (Tri kỉ trông lên đứng tận trời), phải tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng Thượng đế, chư tiên,… để thỏa niềm khao khát. Hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực thường đan cài khăng khít trong thơ ông như thế.


Câu 4. Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới theo hướng hiện đại.

– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.

– Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ.

– Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.

– Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.

Những tìm tòi nghệ thuật trên đây là hướng đi đúng đắn của Tản Đà để tự khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần tới dấu chấm hết.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Ngông trong văn chương là phản ứng của những người nghệ sĩ tài hoa, có cá tính, không chịu trói mình trong một khuôn khổ chật hẹp hoặc là phản ứng của những người trí thức có nhân cách trước xã hội mà họ không thể chấp nhận hay không muốn chấp nhận nhập cuộc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *