Top 6 Bài soạn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải lớp 12 hay nhất

Tác phẩm “Một người Hà Nội” in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Khải ra đời khi đất nước có nhiều thăng trầm, biến động, những giá trị truyền thống … xem thêm…cũng dần phai mờ, đặc biệt là những giá trị của người Hà Nội. Tác phẩm khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội đồng thời gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau. Nhân vật cô Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết sau đây.

Bài soạn “Một người Hà Nội” số 1

I. Tác giả & tác phẩm

1. Tác giả

Nguyễn Khải (1930 – 2008) tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ra tại Hà Nội, nhưng sống ở nhiều nơi. Năm 1947 ông gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Năm 1951 ông làm công tác tuyên huấn ở phòng chính trị Quân khu III. Năm 1952 ông làm Thư kí toà soạn Chiến sĩ quân khu III. Từ năm 1956 ông làm công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ quân đội, là Ủy viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống, công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm chính: Xung đột (tiểu thuyết, phần I – 1959, phần II – 1962), Mùa lạc (1960), Một chặng đường (1962), Tầm nhìn xa (1963), Một người Hà Nội (1990), Một thời gió bụi (1993), Hà Nội trong mắt tôi (1995), Sống ở đời (2002),…


2. Tác phẩm

Truyện ngắn Một người Hà Nội. phát hiện vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Việt Nam qua bao biến động, thăng trầm của đất nước.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 98 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):

* Tính cách, phẩm chất của cô Hiền:

– Cô Hiền là nhân vật trung tâm của truyện. Cũng như người Hà Nội khác, cô đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua nhiều biến động thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách người Hà Nội. Cô sống thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm thái độ của mình với mọi hiện tượng xung quanh.

– Cô sống rất chân thành, thẳng thắn: Hòa bình lặp lại ở miền Bắc, cô Hiền không hề giấu giếm quan điểm của mình: “vui hơn nhiều, nói cũng hơi nhiều”, theo cô “chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá”…

– Là một người có đầu óc quan sát thực tế: Cô tính toán mọi việc trước sau rất khôn khéo và “đã tính là làm, đã làm là không để ý đến những điều đàm tiếu của thiên hạ”…

+ Việc hôn nhân: lấy chồng trước ba mươi tuổi, chồng cô là một ông giáo tiểu học chăm chỉ.

+ Việc sinh con: dừng lại ở tuổi 40 sau khi sinh được 5 người con để nuôi dạy cho chu đáo.

+ Việc dạy con: dạy con từ những cái nhỏ nhất, dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống đúng với bản chất người Hà Nội.

– Là một người yêu nước thầm kín: Đất nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống Mĩ, cô sẵn sàng cho con trai ra trận: “tao đau đớn mà bằng lòng”, “vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”…

* Tác giả cho cô Hiền là “một hạt bụi vàng” của Hà Nội là một sự khẳng định những phẩm chất cao đẹp của con người cô, những tinh hoa trong bản chất người Hà Nội. Những người Hà Nội như cô bình thường và vô danh nhưng là “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội”. Ánh vàng đó chính là truyền thống đẹp đẽ, cốt cách trong sáng của con người nơi đây.

Câu 2 (trang 98 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):

a, Nhân vật tôi: Là người có những quan sát tinh tế, cảm nhận nhạy bén, sắc sảo về nhân vật cô Hiền, về Hà Nội.

– Lúc đầu nhân vật còn tỏ ra nghi ngại, giữ khoảng cách với cô Hiền.

– Về sau anh khâm phục, ngợi ca khẳng định nét đẹp của người Hà Nội, nét đẹp trong bề sâu nhân cách con người.

– Thể hiện một tình yêu sâu nặng, cách nhìn nhận về Hà Nội: đa chiều, lịch lãm.

b, Nhân vật Dũng

Anh là đứa con trai đầu mà cô Hiền rất mực yêu quý. Anh đã sống đúng với những lời mẹ dạy về cách sống của người Hà Nội. Năm 1965, Dũng “tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ”, anh đã dũng cảm, kiên cường chiến đấu suốt mười năm trở về lại Hà Nội trong ngày toàn thắng.

→ Nhân vật góp phần tô điểm thêm cốt cách tinh thần của người Hà Nội, phẩm giá cao đẹp của thanh niên Việt Nam.

c, Người mẹ Tuất: người mẹ yêu thương con hết mực, bà nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục xây dựng cuộc sống.

d, Những người tạo nên “nhận xét không mấy vui vẻ” của nhân vật tôi về Hà Nội

– Đó là ông bạn trẻ đạp xe như gió… làm xe người khác suýt đổ, lại còn phóng xe vượt qua rồi lên mặt chửi: “tiên sư cái anh già”.

– Đó là những người mà nhân vật tôi quên đường hỏi thăm, những người trả lời sõng hoặc hất cằm, có những người giương mắt nhìn như con thú lạ…

→ Đó là một góc khác, những “hạt sạn của Hà Nội” mà người nghệ sĩ đã dám thẳng thắn nhìn vào và phản ánh trong tác phẩm của mình.

Câu 3 (trang 98 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):

Chuyện cây si cổ thụ đổ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh gợi những suy nghĩ, chiêm nghiệm về quy luật bất diệt của cuộc sống. Cây si dù bị bật một phần rễ vẫn hồi sinh, lại trổ cành, xanh lá nhờ ý thức bảo vệ của con người.

→ Vẻ đẹp, sức sống, truyền thống văn hóa của Hà Nội cũng bền bỉ, trường tồn cùng tạo vật, thiên nhiên.

=> Ý nghĩa triết luận đậm nét, sâu sắc của chi tiết nghệ thuật cây si cổ thụ đổ đã thể hiện sinh động phong cách ngòi bút của Nguyễn Khải.

Câu 4 (trang 98 sgk Ngữ Văn 12 Tập 2):

– Đặc sắc trong giọng điệu trần thuật: giọng điệu đầy chiêm nghiệm, vừa tự nhiên, dân dã, vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí.

=> Làm nên chất tự sự vừa đời thường vừa hiện đại.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khải:

+ Đặt nhân vật trong nhiều quan hệ (gia đình, xã hội), nhân vật được soi chiếu trên nhiều bình diện (hôn nhân, nuôi dạy con cái, quản lí gia đình, cách nhìn nhận đối với con người và hiện tượng xung quanh, quan niệm và cách xử thế…).

+ Tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và nhân vật khác.

+ Ngôn ngữ nhân vật góp phần khắc họa tính cách ( ngôn ngữ nhân vật cô Hiền ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát, ngôn ngữ nhân vật “tôi” đậm vẻ suy tư, chiêm nghiệm, pha một chút hài hước, vui vẻ…).

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Một người Hà Nội” số 2

Câu 1 (trang 98 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

* Nhân vật cô Hiền:

– Thời trẻ: xinh đẹp, thông minh, sinh ra trong gia đình giàu có.

– Suy nghĩ, hành động của cô Hiền trong từng thời đoạn của đất nước:

• Thời chống Pháp: vẫn sống ở Hà Nội, không dính líu gì đến “chính phủ”, vẫn sống một cuộc sống đường hoàng, sung túc, vẫn giữ nền nếp sinh hoạt và lễ nghi tốt đẹp của người Hà Nội.

• Thời kì Hà Nội giải phóng: vẫn giữ gìn cách sống và nếp cũ của người Hà Nội, luôn là nội tướng trong gia đình (quyết chuyện sinh con, làm ăn…).

• Thời chống Mĩ: không khuyến khích cũng không ngăn cản con cái tòng quân.

• Sau 1975: giữ nếp sống thanh lịch của người Hà Nội, vẫn tổ chức bữa cơm bạn bè mỗi tháng một lần giữa những cựu công dân của Hà Nội.

– Nếp nghĩ:

• Nước nhà sau độc lập: “Vui hơi nhiều…đến làm ăn chứ?”

• “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”.

• “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”.

• “Chúng mày là người Hà Nội…buông tuồng”.

• “Tao không ngăn cản cũng không…giết chết nó”.

• “Xã hội nào cũng phải có …cho mọi giá trị”.

=> Tính cách cô Hiền: khôn ngoan, sắc sảo, thực tế, thức thời; có bản lĩnh, giàu lòng tự trọng; có ý thức sâu sắc về giữ gìn nền nếp và giá trị văn hóa tốt đẹp của Hà Nội.

=> Nói đến hạt bụi, người la nghĩ đến vật nhỏ bé, tầm thường. Có điều là hạt bụi vàng thì dù nhỏ bé nhưng có giá trị quý báu.Tác giả cho cô Hiền là “một hạt bụi vàng”’ của Hà Nội vì cô đại diện cho cốt cách, bản lĩnh và vẻ đẹp văn hóa vững bền của Hà Nội.


Câu 2 (trang 98 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

– Nhân vật “tôi”:

+ Giỏi quan sát, từng trải qua nhiều biến động của thời cuộc, biết trân trọng giá trị văn hóa và biết quý trọng những con người có bản lĩnh văn hóa như cô Hiền.

+ Một người lính, một người bình thường trong cuộc đời.

+ Thể hiện một tình yêu sâu nặng, cách nhìn nhận về Hà Nội: đa chiều, lịch lãm.

– Nhân vật Dũng:

+ Dũng cảm, có lòng tự trọng, biết chiến đấu khi tổ quốc cần, tình nghĩa, đại diện cho thanh niên Hà Nội.

=> Nhân vật góp phần tô điểm thêm cốt cách tinh thần của người Hà Nội, phẩm chất cao đẹp của thanh niên Việt Nam.

– Người mẹ của Tuất:

+ Yêu thương con hết mực

+ Nén đau thương, nén nỗi đau mất con để tiếp tục cuộc sống.

– Những thanh niên Hà Nội và những người tạo nên “nhận xét không mấy vui vẻ” của nhân vật “tôi”: hời hợt, thô lỗ, ích kỉ, làm xấu đi diện mạo và văn hóa của Hà Nội.


Câu 3 (trang 98 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh gợi lên nhiều suy ngẫm:

– Cây si biểu tượng cho giá trị và văn hóa ngàn năm của Hà Nội. Cây si ấy có thể bị bật rễ trước thiên nhiên khắc nghiệt cũng như nhiều giá trị của Hà Nội có thể chao đảo trước biến động của thời cuộc nhưng những giá trị tốt đẹp nhất, tinh túy nhất, vững bền nhất của Hà Nội sẽ không mất đi như cây si có thể hồi sinh sau trận bão.


Câu 4 (trang 98 SGK Ngữ văn 12 tập 2)

– Giọng điệu trần thuật: vừa tự nhiên, dân dã, hài hước vừa chiêm nghiệm, suy tư, triết lí.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc họa nhân vật thông qua suy nghĩ, lời nói, hành động. Nhân vật được cá thể hóa cao độ với lứa tuổi, giai tầng, tính cách, cuộc đời riêng.


Tóm tắt

Truyện xoay quanh nhân vật cô Hiền, một “hạt bụi vàng” của thủ đô nghìn năm văn hiến. Cô xinh đẹp, thông minh, lại sinh ra trong một gia đình giàu có lương thiện khiến nhân vật “tôi” phải trân trọng, ngưỡng mộ. Thời trẻ, cô mở một xa lông văn học, giao lưu với khách văn chương trí thức. Đến tuổi lập gia đình, cô chọn một ông giáo Tiểu học trong sự ngỡ ngàng của biết bao người. Suốt thời kháng chiến chống Pháp, vợ chồng cô vẫn sống ở Hà Nội một cách đường hoàng, sung túc, sinh hoạt nền nếp, lễ nghi bất chấp xung quanh đói khổ, buông tuồng. Cô Hiền làm nghề hoa giấy và có cái mặt tư sản nhưng không bị cải tạo vì cô chẳng bóc lột ai. Khi người con cả xin vào chiến trường, cô không ngăn cản. Cậu thứ hai thi được điểm cao nên trường giữ lại. Năm 1975, con cả của cô trở về và đã là thượng úy. Cô Hiền tổ chức bữa ăn bạn bè như mấy chục năm nay cô vẫn làm mỗi tháng. Nhân vật “tôi” chuyển vào Sài Gòn sinh sống nhưng cứ ra Hà Nội lại ghé vào thăm cô Hiền. “Tôi” tỏ ý buồn phiền về lối ứng xử xuống cấp của người Hà Nội thời nay. Cô Hiền kể cho anh nghe chuyện cây si bật gốc vì bão ở đền Ngọc Sơn.

Nội dung chính

Đoạn trích thể hiện những trân trọng và khát khao lưu giữ vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa của người Hà Nội cũng là của con người thời nay trước những biến động dữ dội của thời đại kinh tế thị trường và hội nhập văn hóa thế giới.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Một người Hà Nội” số 3

1. Tác giả

– Nguyễn Khải (1930-2008), tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, quê ở Hà Nội

– Nguyễn Khải viết văn từ khi 20 tuổi, được biết đến từ tiểu thuyết “Xung đột”.

– Sau năm 1975. sáng tác của ông đề cập đến nhiều vấn đề, đặc biệt là thái độ của con người trước những sự biến đổi rắc rối của đời sống: Cha và con (1970), Gặp gỡ cuối năm (1982)…

2. Tác phẩm

Tác phẩm được in trong tập truyện ngắn cùng tên, thể hiện những khám phá mới mẻ của tác giả về vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong con người.


Câu 1: (trang 98 sgk ngữ văn 12 tập 2)

Nhân vật trung tâm là cô Hiền:

-Xuất thân từ gia đình tốt

-Ngoại hình: xinh đẹp, thông minh, yêu văn thơ

-Tính cách và phẩm chất:

+ Thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm, thái độ

+ Chăm lo cho con chu đáo

+ Vui vẻ hơi nhiều, nói hơi nhiều

+ Cư xử hợp lí, tài tình với tình hình đất nước.

+ Dạy con sống không phải xấu hổ.

Câu 2 (trang 98 sgk ngữ văn 12 tập 2)

-Nhân vật tôi:

+ Là người giỏi quan sát và cảm nhận nhanh nhạy, sắc bén

+ Có giọng điệu hài hước, dí dỏm

+ Người yêu quý những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc

-Nhân vật Dũng:

+ Nghe lời mẹ

+ Tô thắm được cốt cách, tinh thần của người Hà Nội, phẩm giá cao đẹp của người Việt Nam

-Một số nhân vật khác:

+ Ông bạn trẻ đạp xe như gió

+ Những người mà nhân vật “tôi” hỏi thăm khi quên đường

+ Những “hạt sạn của Hà Nội”

Câu 3: (trang 98 sgk ngữ văn 12 tập 2)

-Ý nghĩa của cây si cổ thụ:

+ Thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên

+ Quy luật của sự sống, niềm tin và hi vọng của con người

+ Hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp con người Hà Nội: cốt cách, tinh hoa văn hóa của Hà Nội là bất diệt.

Câu 4: (trang 98 sgk ngữ văn 12 tập 2)

-Giọng điệu trần thuật: trưởng thành, duyên dáng

+ Mang phong vị dí dỏm trong lời kể của nhân vật

+ Đậm chất đời thường mà hiện đại

-Nghệ thuật xây dựng nhân vật “tôi” và các nhân vật khác:

+ Tạo dựng tình huống gặp gỡ

+ Ngôn ngữ nhân vật khắc họa lên tính cách

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Một người Hà Nội” số 4

Câu 1

Câu chuyện kéo dài từ thời trước Cách mạng đến thời kì đổi mới sau năm 1975, tất cả được chia làm bảy phần.

Sau đây là tóm tắt nội dung chính của từng đoạn được học (từ đoạn 3 đến đoạn 7):

– Đoạn 3: Sau hòa bình lập lại, nhân vật “tôi”, một anh bộ đội Cụ Hồ từ chiến khu Việt Bắc trở về tiếp quản thủ đô. Nhân vật này thấy người dân thủ đô đang thích ứng dần với cuộc sống mới. Cô Hiền một người dân Hà Nội nói về niềm vui và cả những cái ít nhiều có tính máy móc cực đoan của cuộc sống xung quanh.

– Đoạn 4: Thời kì cải tạo tư sản khôi phục kinh tế ở miền Bắc cuộc sống đầy khó khăn. Cô Hiền đã tìm việc làm phù hợp với chủ trương chính sách của chính quyền mới, chế độ mới, khéo léo chèo lái con thuyền gia đình vượt qua nhiều sóng gió.

– Đoạn 5:. Cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Cô Hiền dạy các con mình biết tự trọng, biết xấu hổ. Dũng, đứa con đầu của cô tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Đứa con kế cũng làm dơn xin tòng quân theo anh nhưng vì học xuâ’t sắc nên được trường giữ lại.

– Đoạn 6: Đại thắng mùa xuân 1975. Đất nước tràn ngập niềm vui. Hai vợ chồng nhân vật “tôi” đến dự liên hoan mừng người con trai đầu của cô Hiền trở về. Câu chuyên đầy xúc động của người chiến sĩ này về Tuất, một người đồng đội đã nằm xuống và người mẹ của anh, một người mẹ Hà Nội có con đi chiến đấu chống Mĩ.

– Đoạn 7: Đất nước bước vào thời kì đổi mới với đủ cáì phải trái, tốt xấu. Nhân vật “tôi” từ Thành phố Hồ Chí Minh nhân về Thủ đô công tác ghé lại thăm cô Hiền. Lúc này trong không khí xô bồ của kinh tế thời thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”. Bà kể cho người cháu nghe chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố cho thấy niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Câu 2

(1). Nhân vật trung tâm của truyện là cô Hiền, một người “thuần túy Hà Nội”, một người Hà Nội bình thường. Cũng như bao nhiêu người Hà Nội khác, cô đã chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng đường lịch sử của dân tộc trải qua biết bao là biến dộng thăng trầm nhưng cô vẫn giữ được cô’t cách của con người Hà Nội. Cô Hiền là một con người luôn luôn dám là mình, thẳng thắn, chân thành, không ngại bộc lộ, tỏ bày quan điểm, thái độ của mình với mọi hiện tượng xung quanh. Chẳng hạn, cô nói về niềm vui kháng chiến thành công, miền Bắc bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?…”. Cô cũng cho là “chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục buổi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tốì, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái yêu nhau như thế nào, thậm chí đến cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở”.

Trước sau, bà thu xếp việc nhà rất khôn khéo, thực tế không hề lãng mạn viễn vông. Đối với bà, “đã tính là làm, đã làm là không hề để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Thời con gái, bà Hiền giao du với nhiều văn nhân nghệ sĩ với đủ loại thanh niên con nhà giàu nhưng lại chọn hạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Đến việc sinh con, ở các thời người Việt Nam thích đẻ nhiều con thì quyết định của cô Hiền là chain dứt sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi. Bà không tin “Trời sinh voi trời sinh cỏ” mà tin con cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng có thế’ sống tự lập. Trong việc quản lí gia đình cũng vậy, bà Hiền luôn là người chủ động, tự tin.

Bà quan niệm: “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia dinh ấy cũng chẳng ra sao?”. Đến việc dạy con, bà Hiền dạy con ngay từ lúc chúng còn thơ dại và dạy từ những cái nhỏ bé nhất. Bà xem chuyện ngồi ăn, chuyện cầm bát cầm đũa, múc canh không phải là chuyện vặt vãnh mà đó chính là văn hóa, văn hóa sống, văn hóa người và hơn thế nữa là văn hóa người Hà Nội. Bà khẳng định với con cái mình: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng. Ta chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ…”

Cái chuẩn theo bà Hiền là lòng tự trọng. Lòng tự trọng không cho phép con người sống ích kỉ, hèn nhát. Bà không đồng ý cho chồng mua máy in và thuê thợ làm là muốn góp phần vào việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để nhanh chóng khôi phục đất nước sau chiến tranh. Lòng tự trọng khiến bà cho Dũng đi chiến đấu ra mặt trận về “không muốn nó sống bám vào sự hỉ sinh của bạn bè”. Ba năm sau, đứa em Dũng theo bước anh, cũng đòi vào chiến trường bà cũng lại chấp nhận và bày tỏ thái độ của mình: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chét nó… Tao củng muốn được sống bình đẵng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”.

Đúng là bà Hiền là người có bản lĩnh, trung thực, giàu tự trọng và thiết tha yêu nước

Tác giả cho cô Hiền của mình là một hạt bụi vàng của Hà Nội. Nói đến hạt bụi là nói đến một vật thật nhỏ nhoi tầm thường tưởng như chẳng có giá trị gì. Nhưng ở đầy là hạt bụi vàng thì dù nhỏ nhoi nhưng cũng có giá trị quý báu. Bởi lẽ nhiều hạt bụi vàng gom lại bay lên sẽ thành những áng vàng chói sáng. Cô Hiền tuy chỉ là một người Hà Nội bình thường, không tên tuổi nhưng ở cô, ở người phụ nữ này thắm đượm cái tinh hoa bản sắc người Hà Nội. Đông đảo người Hà Nội như cô nói theo Nguyễn Khải đã là những hạt vàng lấp lánh dâu đó ở mồi góc phố Hù Nội. Họ cùng cô tất cả đang “bay lên cho đất Kinh Kì chói sáng những áng vàng”. Ánh sáng đó là gì? Đó chính là lối sống, bản lĩnh văn hóa ciia người Hà Nội sắc sảo, nhạy bén, Hà Nội nghìn năm văn vật, Hà Nội linh thiêng và rất đỗi đào hoa.

Câu 3

(2). Trong truyện, ngoài nhân vật trung tâm là cô Hiền còn có những người Hà Nội khác. Trước hết là Dũng, đứa con trai đầu của cô. Yêu quý mẹ, anh vâng theo những lời mẹ dạy về cách sống của người Hà Nội. Lúc cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước diễn ra ác liệt nhất cũng là lúc Dũng tốt nghiệp trung học. Anh liền đăng kí xin tình nguyện đi đánh Mĩ. Không đầy ba tháng sau Dũng đã vào Nam chiến đâu sinh tử suốt mười năm và đã trở về trong ngày toàn thắng. Nhưng có biết bao đồng đội anh đã nằm lại luôn ở chiến trường. Nói cụ thề và chính xác là trong 600 thanh niên ưu tú của thủ đô lên đường cùng Dũng ngày đó “bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới bốn chục”. Nghĩa là rất nhiều người đã dâng hiến tuổi thanh xuân đề có được ngày độc lập, tự do và hạnh phúc của đất nước.

Mỗi lần nhớ về họ, Dũng lại xót xa thương Tuất, người bạn chiến đấu cùng trung đoàn ngày trước. Ngày vào Nam khi tàu qua ga Hà Nội, mẹ Tuất làm ở phòng phát thanh nhà ga. Nghe tiếng mẹ phát lên loa nhưng Tuất không thế nào xuống ga đế từ biệt mẹ. Đó cũng chính là lần cuối cùng Tuất dược nghe thấy tiếng nói của mẹ. Bởi vì anh đã “hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc trước ngày toàn thắng có mấy ngày”. Không thể đếm hết số bà mẹ đất Hà Nội có lòng thương con vô bờ và đầy nghị lực như mẹ anh Tuât. Họ đã nén nỗi đau mất mát đê có thể tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây đất nước. Khi gặp lại Dũng người bạn chiến đấ’u của con người bà run bần bật nhưng không khóc và bà nói trong run rẩy đầy xúc động: “Nín đi con, nín đi Dũng. Cô dã biết cả. ‘Cô biết từ mấy tháng nay rồi”. Đấy, chính những người Hà Nội ấy họ đã góp phần làm tươi đẹp thêm cái truyền thông cốt cách của người Hà Nội, cái phẩm giá cao đẹp của con người Việt Nam chúng ta.

Thế nhưng cũng có những người Hà Nội khác khiến mỗi khi nhớ lại. Nhân vật “tôi” cảm thấy “không mấy vui vẻ”. Ấy là “ông bạn trẻ đạp xe như gió” đã làm xe người ta suýt ngã lại còn phóng xe vượt qua rồi quay lại chửi: “Tiên sư các anh già”. Ây là những người khi nhân vật “tôi” quên đường phải hỏi thăm: “Có người trả lời, là nói sẵng hoặc hất cằm, cả người giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ…” chẳng có chút gì là cái tinh tế thanh lịch của người Hà Nội… Hà Nội còn phải làm rất nhiều điều dế không còn những hạt bụi bẩn như thế trong lối sống, ứng xử văn hóa, đế đất Kinh Ki chói sáng những áng vàng.

Câu 4

Nhìn chung, giọng điệu trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Khải trong truyện này là thành công và có những nét đặc sắc đáng chú ý.

Trước hết là giọng điệu trần thuật.

Trong truyện ngắn này, giọng điệu trần thuật rất lịch lãm trải đời, vừa tự nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát triết lí vừa đậm tính đa thanh.

Thấp thoáng sau những dòng chữ cúa truyện là hình ảnh nhân vật “tôi”. Tác giả hoàn toàn nhập thân vào nhân vật này để diễn tả, kế lại những gì mà mình đã chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng đường lịch sử của dân tộc. Trên những chặng đường ấy, nhân vật này đã có những quan sát rất nhạy bén sắc sảo, có bao cảm nhận nghĩ suy rất tinh tế sâu sắc về cô Hiền, về Hà Nội và con người Hà Nội. Giọng điệu vừa vui đùa khôi hài vừa có duyên: “Trong lí lịch cán bộ tôi không ghi tên cô Hiển. Họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào lại thêm phiền…” Có lúc là giọng điệu khôn ngoan, trải đời, nhìn nhận cuộc sống và con người theo hướng suy ngẫm triết lí.

Ví dụ: “… sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm, tầng lớp linh đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ là thời các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả dủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội…”. Giọng điệu trần thuật ở đây còn đậm tính đa thanh nhiều giọng trong lời kể có lúc giọng tự tin chen lấn với giọng hoài nghi: “Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ”-, giọng tự hào chen lẫn giọng tự trào: “Nói cho thật, Dũng mới là nhân vật chính, còn tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang chung mà thôi”… Chính điều này đã khiến cho truyện ngắn của Nguyễn Khải đậm đặc chất tự sự rất, đời thường mà hiện đại.

Ngay cả trong xây dựng nhân vật, tất cả cũng được quy tụ bởi điểm nhìn trần thuật rất chân thật, khách quan mà đúng đắn, sâu sắc của nhân vật “tôi”. Tác giả tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật này với những nhân vật khác cũng là cách thức nhằm khám phá, phát hiện tính cách của họ. Những cuộc gặp gỡ đó được gắn với nhiều chặng đường lịch sử của dân tộc: Sau hòa bình lập lại 1954, sau chiến thắng mùa xuân 1975 rồi nhiều năm đã trôi quạ đất nước bước vào thời kì đổi mới… theo đó mà miêu tả tính cách của nhân vật trung tâm, nhận xét về hành động cách ứng xử của các nhân vật khác: Dũng, Tuất, mẹ Tuất.

Cộng vào đó là ngôn ngữ nhân vật càng khắc họa sâu sắc thêm tính cách của từng người. Ngôn ngữ củã nhân vật “tôi” lịch lãm trải đời, đậm chất suy tư, chiêm nghiêm day dứt, trăn trở, đôi lúc cũng thoáng nét hài hước tự hào: “Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, lù giai cắp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa?… Cho nên cái mùi lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi, mọi chỗ”.

Ngôn ngữ cô Hiền ngắn gọn rõ ràng dứt khoát đúng là ngôn ngữ của một con người có đầu óc thực tế, tư duy lôgic. Đây là đoạn cô đang trao đối với ông chồng đang định mua máy in đế kinh doanh: “Ong có đứng máy được không’?” – “Không”, “Ông có sắp chữ được không?” – “Không”, “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì? Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”.

Hay Dũng, một người lính dạn dày trận mạc nhất định phải có những lời nói thật đau xót: “Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay”…

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Một người Hà Nội” số 5

I. Tác giả
1. Tiểu sử
– Nguyễn Khải (1930 – 2008), tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, ông sinh ra tại Hà Nội.
– Nhà văn được rèn luyện và trưởng thành trong quân ngũ
– Một trong những cây bút hàng đầu của văn xuôi Việt Nam từ sau CMT8

2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
”Xung đột”, “Mùa lạc”, “Một người Hà Nội”, “Thượng Đế thì cười”,…..
b. Phong cách nghệ thuật
Có khả năng phát hiện vấn đề, khả năng phân tích tâm lí nhân vật, giọng văn đôn hậu, trầm lắng, chiêm nghiệm.

II. Tác phẩm
1. Tóm tắt
Truyện xoay quanh nhân vật cô Hiền, một “hạt bụi vàng” của thủ đô nghìn năm văn hiến. Cô xinh đẹp, thông minh, lại sinh ra trong một gia đình giàu có lương thiện khiến nhân vật “tôi” phải trân trọng, ngưỡng mộ. Thời trẻ, cô mở một xa lông văn học, giao lưu với khách văn chương trí thức. Đến tuổi lập gia đình, cô chọn một ông giáo Tiểu học trong sự ngỡ ngàng của biết bao người. Suốt thời kháng chiến chống Pháp, vợ chồng cô vẫn sống ở Hà Nội một cách đường hoàng, sung túc, sinh hoạt nền nếp, lễ nghi bất chấp xung quanh đói khổ, buông tuồng. Cô Hiền làm nghề hoa giấy và có cái mặt tư sản nhưng không bị cải tạo vì cô chẳng bóc lột ai. Khi người con cả xin vào chiến trường, cô không ngăn cản. Cậu thứ hai thi được điểm cao nên trường giữ lại. Năm 1975, con cả của cô trở về và đã là thượng úy. Cô Hiền tổ chức bữa ăn bạn bè như mấy chục năm nay cô vẫn làm mỗi tháng. Nhân vật “tôi” chuyển vào Sài Gòn sinh sống nhưng cứ ra Hà Nội lại ghé vào thăm cô Hiền. “Tôi” tỏ ý buồn phiền về lối ứng xử xuống cấp của người Hà Nội thời nay. Cô Hiền kể cho anh nghe chuyện cây si bật gốc vì bão ở đền Ngọc Sơn.

2. Giá trị nội dung
– Khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội.
– Gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau.
– Nhân vật cô Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.

3. Giá trị nghệ thuật
– Giọng điệu trần thuật: vừa tự nhiên, dân dã, hài hước vừa chiêm nghiệm, suy tư, triết lí.
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: khắc họa nhân vật thông qua suy nghĩ, lời nói, hành động. Nhân vật được cá thể hóa cao độ với lứa tuổi, giai tầng, tính cách, cuộc đời riêng.

III. Trả lời câu hỏi
Câu 1: Nhân vật cô Hiền

– Xuất thân trong một gia đình giàu có lương thiện:

+ Mẹ buôn nước mắm.

+ Cha đậu tú tài, mê văn thơ và dạy cho con những khuôn phép nhà quan.

– Ngoại hình: xinh đẹp, khuôn mặt tư sản, thông minh và rất yêu thơ văn. Được gia đình mở phòng tiếp khách văn chương.

– Tính cách và phẩm chất của cô Hiền:

+ Cô cùng Hà Nội cùng đất nước trải qua biết bao nhiêu thăng trầm nhưng vẫn giữ được cốt cách con người Hà Nội. Cô sống chân thành không dấu giếm quan điểm với mọi người xung quanh.

+ Với hôn nhân: cô chọn chồng là một ông giáo tiểu học chăm chỉ (gia đình ổn định, chồng hiền lành).

+ Việc sinh con: dừng lại ở tuổi 40 sau khi sinh được 5 đứa con để mai này có thể chăm lo cho con chu đáo.

+ Việc dạy con:dạy từ cái nhỏ nhất, dạy từ cái ăn uống hằng ngày, cô dạy con cách sống làm người Hà Nội lịch sự tế nhị, hào hoa, biết giữ gìn phẩm chất của con người Hà Nội.

+ Quan điểm về gia đình: là nội tướng trong gia đình.

+ Chiêm nghiệm lẽ đời: vui hơi nhiều, nói hơi nhiều.

=> Cô Hiền quả là một người thức thời khi có những cư xử hợp với tình hình của xã hội của đất nước. Hòa bình ở Miền Bắc cô tính toán mọi việc rất khôn khéo mà đã làm là làm chứ không bận tâm để ý đến những lời đàm tiếu xung quanh. Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại cô dạy con cách sống cho không phải xấu hổ, cô khuyên con lên đường nhập ngũ. Sau đó đất nước thống nhất cô lại mở một cửa hàng lưu niệm tự tay làm những sản phẩm đi bán. Chồng đòi mua máy in nhưng cô đã phân tích và không cho. Cô nghĩ cô chỉ làm những gì có lợi cho đất nước.

Xem thêm: Soạn văn bài Kể chuyện: Bác sĩ Y-éc-xanh

=> Cô Hiền quả là một hạt bụi vàng của Hà Nội sau bao thăng trầm vẫn cứ sống có nghĩa cho đất nước cho gia đình, hạt bụi ấy tuy là bé nhưng lại vô cùng quý giá.

Câu 2: Nhân vật khác

a. Nhân vật tôi: Thấp thoáng sau những dòng chữ là nhân vật “tôi” – đó là một người đã chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng đường lịch sử của dân tộc. Trên những chặng đường ấy, nhân vật “tôi” đã có những quan sát tinh tế, cảm nhận nhạy bén, sắc sảo, đặc biệt là về nhân vật cô Hiền, về Hà Nội và người Hà Nội. Ẩn sâu trong giọng điệu vừa vui đùa, khôi hài, vừa khôn ngoan, trải đời là hình ảnh một người gắn bó thiết tha với vận mệnh đất nước, trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc. Nhân vật “tôi” mang hình bóng Nguyễn Khải, là người kể chuyện, một sáng tạo nghệ thuật sắc nét đem đến cho tác phẩm một điểm nhìn trầm thuật chân thật, khách quan và đúng đắn, sâu sắc.

b. Nhân vật Dũng

– Anh đã sống đúng với những lời mẹ dạy, anh đã cùng hơn 660 thanh niên anh dũng lên đường cứu lấy Tổ Quốc cứu lấy Hà Nội.

– Có thể nói Dũng và Tuất đều thể hiện được cốt cách của con người Hà Nội.

c. Bên cạnh sự thật về những người Hà Nội có phẩm cách cao đẹp, còn có những người tạo nên “nhận xét không mấy vui vẻ” của nhân vật “tôi” về Hà Nội. Đó là “ông bạn trẻ đạp xe như gió” đã làm xe người ta suýt đổ lại còn phóng xe vượt qua rồi quay mặt lại chửi “tiên sư cái anh già” …, là những người mà nhân vật “tôi” quên đường phải hỏi thăm … . Đó là những “hạt sạn của Hà Nội”, làm mờ đi nét đẹp tế nhị, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống của người Hà Nội nay cần phải làm rất nhiều điểm để giữ gìn và phát huy cái đẹp trong tính cách người Hà Nội.


Câu 3: Ý nghĩa cây si cổ thụ

– Hình ảnh cây si bị bão đánh bật rễ thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên đồng thời nó cũng là quy luật của xã hội.

– Cây si cổ thụ bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh nói lên quy luật bất diệt của sự sống. Quy luật này được khẳng định bằng niềm tin của con người thành phố đã kiên trì cứu sống được cây si.

– Cây si cũng là một biểu tượng nghệ thuật, một hình ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp của Hà Nội: có thể bị tàn phá, bị nhiễm bệnh nhưng vẫn là một người Hà Nội với truyền thống văn hóa đã được nuôi dưỡng suốt trường kì lịch sử, là cốt cách, tinh hoa, linh hồn của đất nước.

Câu 4:

– Giọng điệu trần thuật: một giọng điệu rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí. Vừa đậm tính đa thanh. Cái tự nhiên, dân dã tạo nên phong vị hài hước rất có duyên trong giọng kể của nhân vật “tôi”; tính chất đa thanh thể hiện trong lời kể: nhiều giọng (tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự trào …). Giọng điệu trần thuật đã làm cho truyện ngắn đậm đặc chất tự sự rất đời thường mà hiện đại.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và nhân vật khác.

Xem thêm: Soạn văn bài: Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em

+ Ngôn ngữ nhân vật góp phần khắc họa tính cách (ngôn ngữ nhân vật “tôi” đậm vẻ suy tư, chiêm nghiệm, lại pha chút hài hước, tự trào; ngôn ngữ của cô Hiền ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát …).

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Một người Hà Nội” số 6

I. Tìm hiểu chung về bài Một người Hà Nội

1. Tác giả

Nguyễn Khải, tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải (1930 – 2008) , nhà văn Việt Nam được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau cách mạng tháng 8 năm 1945.
Quê nội của ông ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi.
Chủ đề các tác phẩm của Nguyễn Khải khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội-chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống.
Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xung đột (1959-1962), Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Thời gian của người (1985)…


2. Tác phẩm

Một người Hà Nội là truyện ngắn giàu tính triết luận, được sáng tác trong bối cảnh đổi mới văn học sau 1986.


II. Hướng dẫn Soạn bài Một người Hà Nội

Câu 1 trang 98 SGK văn 12 tập 2

Nhận xét về nhân vật cô Hiền:

Tính cách và phẩm chất: Ngay thẳng, trung thực, quyết đoán thể hiện trong những việc:

Hôn nhân: cô chọn chồng là một ông giáo tiểu học chăm chỉ để có một cuộc sống gia đình ổn định.
Việc sinh con: dừng lại ở tuổi 40 sau khi sinh được 5 đứa con để mai này có thể chăm lo cho con chu đáo.
Việc dạy con: dạy từ cái nhỏ nhất, dạy từ cái ăn uống hằng ngày, cô dạy con cách sống làm người Hà Nội lịch sự tế nhị, hào hoa, biết giữ gìn phẩm chất của con người Hà Nội.
Cách ứng xử của cô trong từng giai đoạn của đất nước:

Chiêm nghiệm lẽ đời: vui hơi nhiều, nói hơi nhiều, còn để mà làm ăn khi đất nước mới độc lập
Hòa bình ở Miền Bắc cô tính toán mọi việc rất khôn khéo mà đã làm là làm chứ không bận tâm để ý đến những lời đàm tiếu xung quanh.
Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại cô dạy con cách sống cho không phải xấu hổ, cô khuyên con lên đường nhập ngũ.
Nói cô Hiền là “hạt bụi vàng của Hà Nội” vì:

Sau bao thăng trầm vẫn cứ sống có nghĩa cho đất nước cho gia đình, giữ trọn cốt cách thanh tao lịch lãm của người Hà Nội- hạt bụi ấy tuy là bé nhưng lại vô cùng quý giá.


Câu 2 trang 98 SGK văn 12 tập 2

Những cảm nghĩ về những nhân vật khác:

Nhân vật tôi: một người đã chứng kiến và tham gia vào nhiều chặng đường lịch sử của dân tộc, đã có những quan sát tinh tế, cảm nhận nhạy bén, sắc sảo, đặc biệt là về nhân vật cô Hiền, về Hà Nội và người Hà Nội. Ẩn sâu trong giọng điệu vừa vui đùa, khôi hài, vừa khôn ngoan, trải đời là hình ảnh một người gắn bó thiết tha với vận mệnh đất nước, trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc. Nhân vật “tôi” mang hình bóng Nguyễn Khải, là người kể chuyện, một sáng tạo nghệ thuật sắc nét đem đến cho tác phẩm một điểm nhìn trầm thuật chân thật, khách quan và đúng đắn, sâu sắc.
Nhân vật Dũng: là con trai cô Hiền, anh đã sống đúng với những lời mẹ dạy, anh đã cùng hơn 660 thanh niên anh dũng lên đường cứu lấy Tổ Quốc cứu lấy Hà Nội. Có thể nói Dũng và Tuất đều thể hiện được cốt cách của con người Hà Nội.


Câu 3 trang 98 SGK văn 12 tập 2

Chuyện cây si cổ thụ bị đánh gẫy ở đền Ngọc Sơn gợi ra những suy nghĩ:

Hình ảnh cây si bị bão đánh bật rễ thể hiện sự khắc nghiệt của thiên nhiên đồng thời đó cũng là quy luật của xã hội.
Cây si cổ thụ bị bão đánh bật rễ rồi lại hồi sinh nói lên quy luật bất diệt của sự sống. Không chỉ vậy, đây là quy luật được khẳng định bằng niềm tin của con người thành phố đã kiên trì cứu sống được cây si.
Cây si cũng là một biểu tượng nghệ thuật, một hình ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp của những con người Hà Nội: có thể bị tàn phá, bị nhiễm bệnh nhưng vẫn là một người Hà Nội mang trong mình những truyền thống văn hóa đã được nuôi dưỡng suốt trường kì lịch sử, là cốt cách, tinh hoa, linh hồn của đất nước.


Câu 4 trang 98 SGK văn 12 tập 2

Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Khái là một giọng điệu rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, đậm tính đa thanh.

=> Giọng điệu trần thuật đã làm cho truyện ngắn đậm đặc chất tự sự rất đời thường mà hiện đại.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

Tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và nhân vật khác.
Ngôn ngữ nhân vật góp phần khắc họa tính cách

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *