Văn bản “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” của nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu được trích từ phần II, bài Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, in trong cuốn Đến … xem thêm…hiện đại từ truyền thống. Từ vốn hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống. Nắm vững bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta có thể phát huy điểm mạnh, khắc phục những hạn chế để hội nhập với thế giới trong thời đại ngày nay. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài soạn “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” số 1
Câu 1 (trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Tác giả phân tích đặc điểm văn hóa trên cơ sở:
+ Tôn giáo: Người Việt không cuồng tín, cực đoan mà dung hòa
+ Nước ta có sự giao lưu văn hóa lâu đời, tiếp xúc, tiếp nhận biến đổi giá trị văn hóa của một số nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới, tiếp thu, chọn lọc
+ Nghệ thuật: sáng tạo tác phẩm tinh tế, không mang vẻ vĩ mô, tráng lệ, phi thường
+ Âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều phát triển đến tuyệt kĩ
– Ứng xử: trọng tình nghĩa, không chú trọng đến trí dũng, không cầu thị, cực đoan, thích an ổn
+ Coi trọng đời sống thế tục, không bám lấy hiện thể, hay sợ hãi cái chết
+ Không đề cao trí tuệ mà coi trọng khôn khéo, bi thủ thế giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn
+ Con người ưa chuộng người Việt hiền lành, tình nghĩa
+ Giao tiếp ưu chuộng hợp tình hợp lý
+ Cách sống người Việt an phận thủ thường
+ Quan niệm về cái đẹp: vừa xinh vừa khéo
+ Màu sắc ưa chuộng: nhẹ nhàng, thanh nhã
Câu 2 (trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hóa Việt Nam tạo ra cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh
– Mang vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch
– Con người hiền hậu, nghĩa tình, có văn hóa nhân bản
Thể hiện qua:
+ Công trình kiến trúc chùa Một Cột, lăng tẩm cho vua chúa
+ Trọng lời ăn tiếng nói: ca dao, dân ca, tục ngữ đúc kết lối ăn nói khéo léo
Câu 3 (trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Hạn chế nền văn hóa truyền thống:
+ Thiếu đột phá, tính sáng tạo mang khả năng phi phàm, kì vĩ
+ Trí tuệ không được đề cao, không mong cao xa, khác thường, hơn người
– Nguyên nhân: ý thức từ lâu đời về sự nhỏ yếu, thực tế có nhiều khó khăn, bất trắc của dân tộc
Câu 4 (Trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo thấm sâu vào tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc
Để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, người Việt cần xác nhận tư tưởng tôn giáp:
+ Phật giáo không được tiếp nhận ở góc độ trí tuệ hay cầu giải thoát
+ Nho giáo không được tiếp nhận ở nghi lễ tủn mủn, giáo điều hà khắc
– Người Việt tiếp nhận tôn giáo tạo ra cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp hài hòa, thanh lịch của những người sống nghĩa tình
Câu 5 (Trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa nhằm nói lên tích cực, và hạn chế văn hóa Việt Nam
– Tích cực:
+ Tính thiết thực: văn hóa gắn bó với đời sống cộng đồng
+ Có nét linh hoạt: thẩm thấu tích cực, cải biến cho phù hợp với đời sống người Việt
+ Dung hòa: giá trị nội sinh, ngoại sinh không loại trừ nhau
Hạn chế: Thiếu sức sáng tạo vĩ đại, phi phàm
Câu 6 (Trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
+ Tạo tác: sự sáng tạo của dân tộc
+ Đồng hóa: tiếp thu cách chủ động, có sàng lọc, giá trị văn hóa bên ngoài
+ Khẳng định của tác giả: có căn cứ, cơ sở
+ Dân tộc trải qua thời gian bị đô hộ, đồng hóa, nhiều giá trị văn hóa bị mai một, xóa nhòa
→ Không chỉ trông cậy vào sự tạo tác
+ Tiếp thu văn hóa từ bên ngoài nhưng không rập khuôn máy móc mà có sự chọn lọc, biến đổi phù hợp
– Trong chữ viết, thơ ca
+ Tiếp thu chữ Hán → sáng tạo ra chữ Nôm
+ Tiếp thu các thể loại văn học Trung Quốc: thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú → sáng tạo song thất lục bát, biến thể thơ bát cú
Luyện tập
Bài 1 (Trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Truyền thống “tôn sư trọng đạo” là nét đẹp của người Việt:
+ Kính trọng thầy cô, những người dạy học, làm nghề dạy học
+ Trọng đạo là trọng nghĩa tình, lẽ phải, những điều tốt đẹp trong đạo đức
Truyền thống này được thể hiện trong nhà trường: học trò kính trọng thầy cô, học hỏi những điều hay lẽ phải, rèn luyện
+ Trong gia đình: con cái kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị những người bề trên, nghe và sống theo truyền thống của gia đình, dòng họ
Bài 2 (trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Nét đẹp văn hóa gây ấn tượng nhất trong Tết Nguyên đán là mọi thành viên trong gia đình được sum họp bên nhau ấm áp.
+ Trong cuộc sống thường nhật, mọi người vì phải lo toan cho cuộc sống mưu sinh nên thường bận rộn, ít có dịp gần gũi nhau
+ Ngày Tết mọi người được nghỉ làm, quây quần bên nhau hạnh phúc, kể cho nhau nghe chuyện đã qua, và hướng nhau tới những điều tốt đẹp
Bài 3 (trang 162 sgk ngữ văn 12 tập 2)
Những hủ tục cần bài trừ trong ngày Tết Việt Nam:
+ Những hoạt động ăn nhậu liên miên, say xỉn điều khiển các phương tiện giao thông gây nguy hiểm cho mọi người
+ Nhiều người buôn thần bán thánh, lợi dụng niềm tin của người khác nhằm trục lợi cá nhân
+ Tệ nạn cờ bạc, cá độ gia tăng nhanh chóng
Bài soạn “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” số 2
Câu 1 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Tác giả Trần Đình Hượu đã phân tích đặc điểm vốn văn hóa của dân tộc trên cơ sở những phương diện cụ thể sau:
– Giá trị tinh thần:
+ Tôn giáo,
+ Nghệ thuật (kiến trúc, hội họa văn học):
+ Ứng xử (giao tiếp cộng đồng, tập quán): trọng tình nghĩa không chú ý nhiều đến trí dũng, khéo léo nhưng không cầu thị, cực đoan, thích yên ổn.
– Giá trị vật chất: Sinh hoạt (ăn, ở, mặc) ưa chừng mực, vừa phải
Câu 2 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hóa Việt Nam là: Văn hóa Việt Nam giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hòa trên mọi phương diện (tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử, sinh hoạt) với tinh thần chung: thiết thực, linh hoạt và dung hòa.
– Đặc điểm này nói lên thế mạnh của vốn văn hóa dân tộc: tạo ra cuộc sống thiết thực bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng thanh lịch sống có tình nghĩa có văn hóa trên một cái nền nhân bản.
– Dẫn chứng:
+ Công trình kiến trúc chùa Một Cột, các lăng tẩm của vua chúa đời Nguyễn…
+ Lời ăn tiếng nói của nhân dân trong tục ngữ, thành ngữ và ca dao…
+ Chiếc áo dàn truyền thống của dân tộc Việt Nam
Câu 3 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
* Hạn chế:
– Do tính chất trọng sự dung hòa trong tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần và vật chất nên văn hóa Việt Nam chưa có một vóc lớn lao, chưa có một vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng tạo được ảnh hưởng sâu sắc tới các nền văn hóa khác.
– Tôn giáo, nghệ thuật: Ít quan tâm đến tôn giáo nên tôn giáo không phát triển, không có các công trình kì vĩ, tráng lệ.
– Quan niệm về lí tưởng: không có khát vọng và sáng tạo lớn trong cuộc sống, chấp nhận cái gì vừa phải, không ca tụng trí tuệ mà đề cao sự khôn khéo.
Câu 4 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Những tôn giáo có ảnh hưởng mạnh đến văn hóa truyền thống Việt Nam là: Phật giáo và Nho giáo, tuy từ ngoài du nhập vào nhưng đều để lại dấu ấn sâu sắc trong bản sắc dân tộc).
– Người Việt Nam đã tiếp nhận những tư tưởng tôn giáo này trên cơ sở chọn lọc những tư tưởng tiến bộ, nhân văn của những tôn giáo đó để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
– Ví dụ trong văn học: Quan niệm về vấn đề nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
=> Câu thơ của Nguyễn Trãi có sự kế thừa từ tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử.
Câu 5 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Nhận định “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa” nhằm nêu lên mặt tích cực của văn hóa Việt Nam.
=> Không phải sự sáng tạo, tìm tòi, khai phá nhưng nó khẳng định được sự khéo léo, uyển chuyển của người Việt trong việc tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại để tạo nên những nét độc đáo của văn hóa Việt Nam.
Câu 6 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Về lịch sử: dân tộc ta trải qua một thời gian dài bị đô hộ, áp bức và đồng hóa. Những giá trị văn hóa gốc phần nhiều đã bị mai một, xóa nhòa. Bởi vậy, văn hóa Việt Nam không thể trông cậy vào khả năng tạo tác mà phải trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài là một yếu tố.
– Văn hóa Việt Nam ảnh hưởng đạo Phật nhưng đạo Phật đã bị “Việt hóa” khi vào Việt Nam: người Việt Nam không tiếp thu toàn bộ giáo lí của đạo Phật mà chỉ tiếp thu lòng nhân ái, bao dung, vô lượng, cùng những yếu tố nhân văn tích cực khác của Phật.
– Văn hóa Việt Nam cũng tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, nhưng cũng “Việt hóa” theo tinh thần “thiết thực, linh hoạt, dung hòa”.
– Văn hóa Việt Nam cũng tiếp thu những tư tưởng của văn hóa phương Tây hiện đại nhưng cũng “Việt hóa” trên tinh thần độc lập dân tộc.
Luyện tập
Câu 1 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Giải thích nghĩa của thành ngữ: “tôn sư trọng đạo”.
– Những biểu hiện của truyền thống này trong thời đại xưa và nay?
– Những suy nghĩ về truyền thống này trong nhà trường và xã hội hiện nay.
+ Đã và đang được phát huy một cách tốt đẹp.
+ Có những hiện tượng lợi dụng, lạm dụng cần lên án và xóa bỏ.
Câu 2 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
Hướng dẫn: Có thể lựa chọn một trong những nét đẹp sau.
– Luộc bánh chưng: cả gia đình đoàn tụ quây quần thể hiện tinh thần đoàn kết, hướng về cội nguồn.
– Đi chúc tết: thể hiện mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với người thân, bạn bè.
– Trồng cây ngày tết: Do Bác Hồ phát động thể hiện mong muốn một năm mới nhiều may mắn, phát tài phát lộc,…
=> Những nét đẹp văn hóa trên đều là những truyền thống văn hóa cần được bảo tồn và phát huy.
Câu 3 (trang 162 SGK Ngữ văn 12 tập 2)
– Có thể lựa chọn: tụ tập rượu chè, đốt vàng mã, cúng bái,… Đây đều là những tàn dư phong kiến còn sót lại, là sản phẩm của thái độ chây lười, mê tín dị đoan có hại cho đời sống cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
Bố cục
Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (Từ đầu đến “chắc chắn có liên quan gần gũi với nó”): Nêu một số nhận xét về vấn đề văn hóa của dân tộc
– Phần 2 (Tiếp theo đến “để lại dấu vết khá rõ trong văn học”): Đặc điểm của văn hóa Việt Nam
– Phần 3 (Còn lại): Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc
Nội dung chính
Từ hiểu biết sâu sắc về vốn văn hóa dân tộc, bài viết đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống.
Bài soạn “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” số 3
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
– Trần Đình Hượu (1926 – 1995) quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Từ 1963 đến 1993, ông giảng dạy tại khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông chuyên nghiên cứu các vấn đề lịch sử tu’ tưởng và văn học Việt Nam trung cận đại.
– Các công trình chính: Đến hiện đại từ truyền thống (1996), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995), Các bài giáng về tư tưởng phương Đông (2001),…
– Năm 2000, Trần Đình Hượu được tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ.
2. Tác phẩm
– Văn bản được trích trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống (1996) , một công trình được tặng Giải thưởng Nhà nước. về một số mặt của văn hoá truyền thống được trích ở phần về vẩn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc (mục 5, phần II và toàn bộ phần III).
– Phần về vấn đề tìm đặc sắc văn hoá dân tộc gồm 3 nội dung:
+ Phần I: Khái niệm chung về văn hoá và đặc sắc văn hoá dân tộc.
+ Phần II: Một số nhận xét về vài ba mặt của cái vốn văn hoá dân tộc Việt Nam.
+ Phần III: Xây dựng văn hoá Xã hội Chủ nghĩa từ cái vốn văn hoá truyền thống.
3. Khái niệm văn hoá
– Theo từ điển: Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
– Văn hoá bao gồm tất cả những gì con người sáng tạo, không có sẵn trong tự nhiên: ẩm thực, kiến trúc, âm nhạc, mỹ thuật, văn học, ngôn ngữ, phong tục, trang phục, tín ngưỡng, tôn giáo.
II. HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
Câu 1. Tác giả Trần Đình Hượu đã đề cập đến những đặc điểm của truyền thống văn hoá Việt Nam trên cơ sở những phương diện chủ yếu của đời sống tinh thần và vật chất: tôn giáo, nghệ thuật (kiến trúc, hội hoạ, văn học), ứng xử (giao tiếp cộng đồng, tập quán), sinh hoạt (ăn, ở, mặc).
Câu 2. Đặc điểm nổi bật nhất trong các sáng tạo văn hoá của Việt Nam theo tác giả
– Văn hoá Việt Nam giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hoà trên mọi phương diện (tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử, sinh hoạt). Thực tế cho thấy Việt Nam có nhiều tôn giáo, nhiều dân tộc cùng tồn tại trên lãnh thổ nhưng hầu như trong lịch sử không xảy ra xung đột dữ dội về tôn giáo, về sắc tộc. Các công trình kiến trúc như chùa Tây Phương, chùa Một Cột, Tháp Rùa, lăng tẩm vua chúa đời Nguyễn… có kiến trúc với quy mô nhỏ nhưng vẫn có những điểm nhấn tinh tế, hài hoà với thiên nhiên…
– Đặc điểm nổi bật nhất trong các sáng tạo của văn hoá Việt Nam: “Cái đẹp vừa ý là xinh, là khéo. Ta không háo hức cậi tráng lệ, huy hoàng, không say mê cái huyền ảo, kì vĩ. Màu sắc chuộng cái dịu dàng thanh nhã, ghét sặc sỡ. Quy mô chuộng sự vừa khéo, vừa xinh, phải khoảng. Giao tiếp ứng xử chuộng họp tình, họp lí. Áo quần, trang sức, món ăn đều không chuộng sự cầu kì. Tất cả đều hưởng vào cái đẹp dịu dàng, thanh lịch duyên dáng và có quy mô vừa phải”.
– Tác giả khẳng định: “Nhìn vào lối sống, quan niệm sống, ta có thể nói người Việt Nam sống có văn hoá, người Việt Nam cố nền văn hoá của mình. Những cái thô dã, những cái hung bạo đã bị xọá bỏ để có cái nền nhân bản. Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà”.
Câu 3: Những đặc điểm có thể coi là hạn chế của vốn văn hoá dân tộc
– Ngay trong mặt tích cực của vặn hoả Việt Nam cũng ẩn tàng những hạn chế. Do quan niệm “dĩ hoà vi quí” trong mọi lĩnh vực đời sống tinh thần, vật chất nên văn hoá Việt chưa có một tầm vóc lớn lao, chưa có một vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa ảnh hưởng sâu sắc đến các nền văn hoá khác. So sánh với văn hoá Hi Lạp, La Mã, Ân Độ, Trung Hoa… ta mói thấy được điều đó.
– “Tôn giáo hay triết học đều cũng không phát triển”. Không có một ngành khoa học, kĩ thuật, giả khoa học nào phát triển đến thành có truyền thống. Âm nhạc, hội hoạ, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ…”. Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. Dân tộc chống ngoại xâm liên tục nhưng không thượng võ”, “Không ca tụng trí tuệ mà ca tụng sự khôn khéo”. Tác giả nhận định khái quát về bản chất của nền văn hoá truyền thống: “Đó là văn hoá của dân nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có sự kích thích của đô thị” và lí giải về nguyên nhân của những hạn chế này: “Phải chăng đó là kết quả của ý thức lâu đòi về sự nhỏ yếu, về thực tế nhiều khó khăn, nhiều bất trắc”.
Câu 4
– Những tôn giáo có ảnh hưởng mạnh đến văn hoá truyền thống Việt Nam là: Phật giáo và Nho giáo (Phật giáo và Nho giáo tuy từ ngoài du nhập vào nhưng đều để lại dấu ấn sâu sắc trong bản sắc dân tộc).
– Để tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc, người Việt Nam đã tiếp nhận tư tưởng của tôn giáo này theo hướng: “Phật giáo không được tiếp nhận ở khía cạnh trí tuệ, cầu giải thoát, mà Nho giáo cũng không được tiếp nhận ỏ’ khía cạnh nghi lễ tủn mủn, giáo điều khắc nghiệt”. Người Việt tiếp nhận tôn giáo để tạo ra một cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, những con người hiền lành, tình nghĩa, sống có văn hoá trên một cái nền nhân bản.
– Những câu tục ngữ Việt Nam đã nói lên quan niệm đó: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa”… Tư tưởng nhân nghĩa, trung quân ái quốc, tôn sư trọng đạo… của Nho giáo cũng được Việt hoá theo hướng phù họp với tâm-lí và xã hội người Việt: “Học thầy không tày học bạn”, “Phép vua thua lệ làng”, “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”…
Câu 5. “Tinh thần chung của văn hoá Việt Nam là thiết thực, linh họạt, dung hoà”. Đặc điểm này vừa nêu lên mặt tích cực, vừạ tàng ẩn những hạn chế của văn hoá Vịệt Nam
– Đây là điểm tích cực vì:
+ Tính thiết thực khiến cho văn hoá Việt gắn bó sâu sắc với đời sống cộng đồng. Chẳng hạn nhà chùa là nơi thờ Phật tôn nghiêm nhưng đồng thời diễn ra nhiều sinh hoạt thế tục như ma chây, cưới hỏi, nuôi nấng trẻ em cơ nhỡ…
+ Tính linh hoạt thể hiện rõ ở khả năng tiếp nhận và biến đối các giá trị văn hoá thuộc nhiều nguồn khác nhau sao cho phù họp vói đòi sống bản địa của người Việt: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo… đều có chỗ đứng trong văn hoá Việt.
+ Tính dung hoà là hệ quả tất yếu của hai thuộc tính trên ữong văn hoá của người Việt. Các giá trị văn hoá thuộc nhiều nguồn khác nhau không loại trừ nhau mà được người Việt tiếp thu có chọn lọc để tạo nên sự hài hoầ bình ổn trong đời sống văn hoá.
=> Chính vì thế, vốn văn hoá Việt truyền thống giàu giá trị nhân bản, không sa vào tình trạng cực đoan, cuồng tín.
– Tuy nhiên, trong mặt tích cực lại tàng ẩn những hạn chế. Hạn chế ấy là vì luôn dung hoà nên thiếu những sáng tạo lớn, không đạt đến những giá trị phi phàm, kì vĩ. Chỉ có những tư tưởng tôn giáo hoặc quan niệm xã hội ít nhiều mang tính cực đoan mới tạo ra những giá trị đặc sắc nổi bật (Vạn lí trường thành – Trung Quốc, Kim Tự tháp – Ai Cập). Tuy nhiên, trong hoàn cảnh địa lí, lịch sử, xã hội cụ thể của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tính thiết thực, linh hoạt, dung hoà bảo đảm cho văn hoá Việt tồn tại qua những gian nan bất trắc của lịch sử.
Câu 6. Trong lời kết của đoạn trích, Trần Đình Hượu khẳng định: “Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hoá không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó mà còn trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hoá những giá trị văn hoá bên ngoài, về mặt đó, lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh”.
– Khái niệm “tạo tác” ở: đây là khái niệm có tính chất quy ước, chỉ những sáng tạo lớn, những sáng tạo mà không dân tộc nào hoặc có mà không đạt được tầm vóc kì vĩ, gây ảnh hưởng mạnh mề đến xung quanh, toạ thành những mẫu mực đáng học tập.
– Khái niệm “đồng hoá” vừa chỉ vị thế tồn tại nghiêng về phía-tiếp nhận những ảnh hưởng lan đến từ các nguồn văn minh, văn hoá lớn, vừa chỉ khả năng tiếp thu chủ động của chù thể tiếp nhận một khả năng cho phép ta biến những cái ngoại lai thành cái của mình, trên cơ sở gạn lọc và thu giữ.
– Khái niệm “dung hợp” vừa có những mặt gần gũi với khái niệm “đồng hoá”, vừa có điểm khác. Với khái niệm này, người ta muốn nhấn mạnh đến khả năng “chung sống hoà bình” của nhiều yếu tố tiếp thu từ nhiều nguồn khác nhau, có thể hài hoà được với nhau trong một hệ thống, một tổng thể mới.
Như vậy, khi khái quát bản sắc văn hoá Việt Nam, tác giả không hề roi vào thái độ tự ti, miệt thị dân tộc. Và “Nền văn hoá tương lai” của Việt Nam sẽ là một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Có hoà nhập mà không hoà tan, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại để làm giàu cho văn hoá dân tộc.
Thực tế lịch sử, văn hoá và văn học Việt Nam đã chúng minh điều đó:
– Một ngàn năm, bằng mọi thủ đoạn, tập đoàn phong kiến phương Bắc cũng không thể thực hiện được ý đồ thôn tính Việt Nam.
– Thơ Đường luật ảnh hưởng khá nặng tính quy phạm cua Trung Hoa nhưng trong quá trình sử dụng, ông cha ta lần lượt phá vỡ tính quy phạm.
– Chưa có chữ viết thì mượn chữ Hán, nhưng không phải chỉ mượn nguyên để sử dụng mà trên cơ sở đó, ta còn sáng tạo ra chữ ghi âm tiếng Việt: chữ Nôm.
– Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Hoa. Nhưng Phật trong văn hoá Việt vẫn có nét đặc trưng: Quan Âm thành Phật ở Hương Tích, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã tạo được sự hài hòa giữa đạo “ đời, nhà sư và nhà vua.
Bản sắc văn hoá là cái riêng, cái độc đáo mang tính bền vũng vả tích cực của một cộng đồng văn hoá. Vì thế, nếu không có sự tạo tác của chính cộng đồng thì nền văn hoá đó sẽ không có nội lực bền vững.
III. LUYỆN TẬP
Câu 1. Anh (chị) hiểu thế nào là truyền thống “tôn sư trọng đạo” – một nét đẹp của văn hoá Việt Nam? Trình bày những suy nghĩ của anh (chị) về truyền thống này trong nhà trường và xã hội hiện nay.
Bài viết tham khảo
Nghĩ về truyền thống “Tôn sư trọng đạo”
Khi không gian có những cơn gió se se lạnh, lá bàng bắt đầu trút xuống và trên bầu trời xuất hiện những cánh chim bay về phương Nam thì cũng là thời gian mà học sinh vui mừng, háo hức đón chào ngày 20 – 11, ngày Nhà giáo Việt Nam với những món quà thật ý nghĩa dâng lên thầy cô giáo để thể hiện truyền thống “Tôn sư trọng đạo”.
Vậy, ”Tôn sư trọng đạo” là gì? Có thể hiểu rằng, “tôn sư” là lòng tôn kính, thương mến của người học trò đối với thầy; “trọng đạo” là đề cao, xem trọng đạo lý. Tinh thần “Tôn sư trọng đạo” có từ rất lâu, đã ừở thành truyền thống tốt đẹp cùa dấn tộc ta. Thời phong kiến, trong bậc thang giá trị, vua là trên hết, và người thầy xếp sau vua nhưng trước cha mẹ. Chúng ta thường nghe nói “Quân – Sư – Phụ” là thế. Nhũng câu tục ngữ, ca dao truyền miệng từ xưa đến nay mà mọi người đều thấy quen thuộc: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thầy đố mày làm nên”, “Trọng thầy mới được làm thầy”, “Muốn sang thì bắc cầu kiều – Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, cũng thể hiện được truyền thống “Tôn sư trọng đạo”.
Có nhiều người băn khoăn: Vì sao người học cần phải biết “tôn sư”? Bởi vì người thầy là người biết thương mến, lo lắng cho học trò mình, biết cách dạy dỗ, hướng dẫn cho học trò mình phát triển, tiến bộ, trở nên người tốt ở trên đòi. Từ xưa, lịch sử giáo dục của dân tộc ta có những người thầy tiêu biểu, được nhản dân mắi mãi tôn vinh, gương sáng còn lan tỏa đến ngày nay như thầy Đỗ Năng Tế (thầy dạy cả văn lẫn võ cho hai chị em Trưng Trắc và Trung Nhị), thầy Chu Văn An, thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy Nguyễn Đình chiểu và gần đấy, có thầy Nguyễn Tất Thành (tức Bác Hồ kính yêu của chúng ta). Những người thầy đó đã để lại những tấm gương sáng về đạo làm thầy, không màng danh lợi, không chuông hư vinh, hết lòng đào tạo bao thể hệ học trò, con em nhân dân phò đời giúp nước, làm rạng rỡ những trang sử vẻ vang của dân tộc. Không chỉ biết “tôn sư”, người học còn phải biết “trọng đạo”. Một trong những biểu hiện của tinh thần “trọng đạo” là xem trọng, biết ơn người thầy. Ngày xưa, cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, ông bà, cha mẹ lại không quên nhắc nhở con cháu đi chúc Tết “Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy”. Trong không khí “vui như Tết”, mọi người vẫn không quên dành cho những người thầy những lời chúc tốt đẹp, những sự quan tâm đầy tình nghĩa.
Ngày nay nhà giáo được vinh danh là kĩ sư tâm hồn, nghề giáo được đánh giá là “Nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao qúy. Lớp lớp nhà giáo đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp “Vì lợi ích trăm năm uống người” (Bác Hồ), họ đã giảng dạy những học sinh từ mẫu giáo đến việc đào tạo ra không chỉ những công nhân, viên chức bình thường mà cả rất nhiều kĩ sư, bác sĩ, tiến-sĩ, giáo sư nổi tiếng. Và không giống những nghề cho ra đời những sản phẩm vật chất, nghề giáo đã tạo ra nhũng con người tri thức, có đạo đức. Mà muốn tạo ra những sản phẩm con người vừa có đạo đức, vừa có tri thức trong thời buổi hội nhập, trong sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ hiện nay, chắc chắn làm một thầy giáo, cô giáo cũng chẳng dễ dàng gì. Để có một bài giảng tốt, một lời khuyên hay, người thầy trước tiên phải là tấm gương sáng, và đã phải trăn trở, nghĩ suy biết bao đêm ngày, lo lắng tất cả mọi thứ từ việc dặn dò học sinh học bài cũ, soạn bài mới cho đến việc thiết kế, soạn giáo án lên lớp. Đó là chưa kể đến những thầy cô nhà ở rất xa trường phải đi rất nhiều cây số mới đến được lớp học, rồi lại có những thầy cô có hoàn cảnh rất khó khăn, cha mẹ già yếu, con cáỉ đau ốm,…
Nhưng vượt lên tất cả sự vất vả, người thầy luôn dành những gì tốt nhất mà mình chuẩn bị, dành hết cái tâm của mình đế học sinh có thể hiểu bài, với một hi vọng giản đon là mỗi học sinh sẽ trỡ thành một người có ích cho xã hội trong hiện tại và tương lai. Chính vì vậy mà hình ảnh người thầy đã khắc sâu vào tâm hồn của những ai tùng là học sinh. Chắc chắn không ai có thể quên được ngày đầu tiên đi học “mắt ướt nhạt nhòa”, được cô giáo “vỗ về an ủi thật thiết tha”, Rồi trong một khoảng thời gian dài làm học sinh, biết bao người đã được thầy cô uốn nắn tùng chữ viết, dạy cho cách làm người, cung cấp bao nhiêu kiến thức. Viên phấn trên tay thầy cô càng ngắn dần, tóc thầy cô càng điểm nhiều sợi bạc thì học sinh càng được mở rộng thêm về kiến thức, về sự hiểu biết. Trong miền kí ức của học sinh, thầy cô là người cha, người mẹ thứ hai, là ngọn gió mơn man mùa hạ, là bếp lửa hồng sưởi ấm mùa đông giá rét.
Tấm lòng của thầy cô bao la như trời biển, vậy mà trong môi trường học đường, vẫn còn đâu đó một so học sinh còn có biểu hiện xem thường kỉ cương học tập và thái độ tôn Sư trọng đạo. Ớ lớp, họ không chú ý nghe thầy, đua bạn. Ở nhà, họ không chịu học bài, làm bài, ý thức tự giác của họ chưa cao, thậm chí họ còn có thái độ vô lễ, xem thường thầy cô. Đó là chưa kể đến một số học sinh đã rời trường, bất chợt gặp thầy cô trên đường thì nhìn đi chỗ khác hoặc cứ giương mắt rồi đi mà chẳng hề chào hỏi. Những học sinh đó thật là đáng trách.
Người dân Việt Nam có tinh thần hiếu học và rất biết ơn người có công dạy dỗ mình dù người ấy chỉ dạy mình một chữ hay nửa chữ “Nhất tự vi sư, bán tự vi sừ”. Mang ơn thầy là bổn phận của người học bởi “Không thầy đố mày làm nên”. Bổn phận này không phải chỉ là sản phẩm của lý trí thuần túy, nó xuất phát từ một tấm lòng, một tình cảm thật sâu xa bền bỉ: đó là sự thương mến kính trọng thầy. Mà đã thương mến, kính trọng, biết ơn thầy thỉ phải thể hiện bằng hành động thật cụ thể, chí ít phải chú trọng việc duy trì nề nếp, kỷ cương học tập và có thái độ Tôn sư trọng đạo”. Mỗi học sinh cần học bài cũ, soạn bài mới trước khi đến lớp. Ở lớp học, chúng ta nên chú ý nghe thầy giảng, học tập cùng bạn, thi đua giành nhiều điểm tốt, lễ phép với thầy cô và thân ái vói bạn bè. Đó chính là món quà tinh thần lớn nhất má chúng ta dành tặng thầy cô. Thiết nghĩ, khi còn ngồi trên ghế học đường mà học sinh không học hành nghiêm túc, không kính trọng thầy, cô giáo thì sau này khó trỏ’ thành công dân tốt. Chắc chắn, các thầy cô giáo hết lòng với học sinh, với nghề nghiệp, ngày xưa họ từng là những học sinh có tinh thần “Tôn sư trọng đạo”.
Ngày 20 -11 đã đến, một ngày như bao ngày nhưng lại trọng đại hơn bao ngày bởi đây là ngày Hội của các thầy, các cô, ngày mà các thầy cô có dịp nhìn lại thành quả do công sức khó nhọc của mình bỏ ra, ngắm những cây xanh do chính tay mình ươm mầm và chăm sóc, là ngày mà vẻ đẹp của các “kĩ sư tâm hồn” được tôn vinh, là ngày mà dân tộc Việt Nam thể hiện rõ nhất truyền thống ‘Tôn sư trọng đạo”. Với ý nghĩa ấy, học sinh chúng ta hãy trân trọng kính dâng các thầy, các cô nhũng đoá hoa thành tích tươi thắm cùng lời chúc thầy cô dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, hoàn thành tốt công tác, mãi mãi thưong yêu và dìu dắt học sinh từng bước trưởng thành.
Câu 2. Theo anh (chị), nét đẹp văn hoá gây ấn tượng nhất trong những ngày Tết Nguyên đán của Việt Nam là gì? Trình bày những hiểu biết và quan điểm của anh chị về vấn đề này?
Học sinh có thể tham khảo một số ý sau:
– Tống cựu nghênh tân (tiễn năm cũ qua đón năm mới đến): cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế, ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.
– Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác, viết, vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, trách phạt con em, đối vói ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dù lạ dù quen.
– Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xí xoá hết. Dù có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.
– Hái lộc, xông nhà, chúc Tết, mừng tuổi: ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hái lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người “nhẹ vía” mà mình thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình “nặng vía”, Tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà.
– Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích, Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Xưng hô họp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết những người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau “của đi thay người”, “tai qua nạn khỏi”, nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
– Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đậm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao.
– Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ấn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày…
Câu 3. Theo anh (chị) hủ tục cần bài trừ trong ngày lễ tết ở Việt Nam là gì? Trình bày hiểu biết và quan điểm của anh (chị) về vấn đề này.
Hủ tục cần bài trừ: Kiên quyết chống tệ liên hoan ăn uống, lãng phí, lối sống bê tha, rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan..,
Bài soạn “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” số 4
I. Đôi nét về tác giả Trần Đình Hượu
– Trần Đình Hượu sinh năm 1926, mất năm 1995, quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An
– Ông chuyên nghiên cứu các vấn đề lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam trung, cận đại
– Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ
– Các công trình chính: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930 (1988), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995), Đến hiện đại từ truyền thống (1996), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông (2001),…
II. Đôi nét về tác phẩm Nhìn về vốn văn hóa dân tộc
1. Hoàn cảnh ra đời
– Văn bản được trích từ phần II, bài Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, in trong cuốn Đến hiện đại từ truyền thống
– Nhan đề do người biên soạn đặt
2. Bố cục (3 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “chắc chắn có liên quan gần gũi với nó”): Nêu một số nhận xét về vấn đề văn hóa của dân tộc
– Phần 2 (tiếp đó đến “để lại dấu vết khá rõ trong văn học”): Đặc điểm của văn hóa Việt Nam
– Phần 3 (còn lại): Con đường hình thành bản sắc văn hóa dân tộc
3. Giá trị nội dung
– Từ vốn hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, tác giả đã phân tích rõ những mặt tích cực và một số hạn chế của văn hóa truyền thống
– Nắm vững bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta có thể phát huy điểm mạnh, khắc phục những hạn chế để hội nhập với thế giới trong thời đại ngày nay.
4. Giá trị nghệ thuật
– Văn phong khoa học, chính xác, mạch lạc
– Bố cục rõ ràng, rành mạch
– Lập luận xác đáng, dẫn chứng xác thực, lí lẽ sắc bén
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1:
Những phương diện cụ thể sau:
Tôn giáo, nghệ thuật (kiến trúc, hội họa văn học)
Ứng xử (giao tiếp cộng đồng, tập quán)
Sinh hoạt (ăn, ở, mặc) ưa chừng mực, vừa phải
Quan niệm về cái đẹp trong suy nghĩ của người Việt
Câu 2:
Đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hóa Việt Nam là tạo ra một cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng, thanh lịch, những con người hiền lành, tình nghĩa, sống có văn hóa trên một cái nền nhân bản.
Ví dụ:
Về tín ngưỡng: Thờ cúng tổ tiên, truyền thống uống nước nhớ nguồn, đi chùa đầu năm, đầu tháng và ngày rằm
Về văn học nghệ thuật: Từ xa xưa là văn học dân gian gần gũi (ca dao) rồi các tác phẩm về cuộc sống nông thôn bình yên
Câu 3:
Những hạn chế của nền văn hóa truyền thống Việt Nam là thiếu sáng tạo phi phàm, kì vĩ và những đặc sắc nổi bật, không mong gì cao xa, khác thường, hơn người, trí tuệ không được đề cao. Sở dĩ có hạn chế đó là do ý thức lâu đời về sự nhỏ yếu, về thực tế nhiều khó khăn, nhiều bất trắc của dân tộc.
Câu 4:
Những tôn giáo có ảnh hưởng: Phật giáo và Nho giáo
Người Việt tiếp nhận tôn giáo tạo ra cuộc sống thiết thực, bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp hài hòa, thanh lịch của những người sống nghĩa tình
Câu 5:
Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa nhằm nói lên tích cực, và hạn chế văn hóa Việt Nam
Mặt tích cực:
Tính thiết thực: văn hóa gắn bó với đời sống cộng đồng
Có nét linh hoạt: thẩm thấu tích cực, cải biến cho phù hợp với đời sống người Việt
Dung hòa: giá trị nội sinh, ngoại sinh không loại trừ nhau
Mặt hạn chế: Thiếu sức sáng tạo vĩ đại, phi phàm
Câu 6:
Lịch sử chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh:
Tạo tác: sự sáng tạo của dân tộc.
Đồng hóa: tiếp thu cách chủ động, có sàng lọc, giá trị văn hóa bên ngoài
Khẳng định của tác giả: có căn cứ, cơ sở
Dân tộc trải qua thời gian bị đô hộ, đồng hóa, nhiều giá trị văn hóa bị mai một, xóa nhòa
Tiếp thu văn hóa từ bên ngoài nhưng không rập khuôn máy móc mà có sự chọn lọc, biến đổi phù hợp
VD thực tiễn như:
Tiếp thu chữ Hán → sáng tạo ra chữ Nôm
Tiếp thu các thể loại văn học Trung Quốc: thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú → sáng tạo song thất lục bát, biến thể thơ bát cú
Phần luyện tập
Câu 1:
Anh (chị) hiểu thế nào là truyền thống tôn sư trọng đạo? Trình bày những suy nghĩ của anh chị về vấn đề này trong nhà trường và trong xã hội hiện nay?
Bài làm:
Tôn sư trọng đạo là một truyền thống tốt đẹp của văn hóa truyền thống Việt Nam. Chính vì thế mà trong ca dao tục ngữ xưa luôn đề cao thầy “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” . Tuy nhiên, ngày nay truyền thống này có nhiều vấn đề khiến chúng ta cần xem xét lại. Nó đã bị biến tướng trong nhà trường và xã hội.
Tôn sư trọng đạo là tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo, Nho giáo đặc biệt đề cao sự học và vai trò của người thầy. Người thầy đại diện cho những gì tôn kính nhất; đạo thầy trò là một trong những rường mối đạo đức quan trọng nhất của xã hội phong kiến (quân, sư, phụ)… ông cha ta đã tiếp thu tư tưởng này theo tinh thần “thiết thực, linh hoạt, dung hòa”; lược bớt các nghi lễ mang tính hình thức khắt khe, rườm rà, chú trọng đến nội dung nhân bản của thái độ coi trọng tri thức và mối quan hệ thầy trò. Tôn sư trọng đạo đã trở thành một truyền thông văn hóa, đạo đức quý giá của người Việt. Nhờ coi trọng việc học tôn kính người thầy, nhân dân ta đã góp phần tạo dựng nền văn hiến của đất nước. Thời đại nào cũng có nhiều tấm gương hiếu học, nhiều người thầy mẫu mực và những câu chuyện cảm động về tình nghĩa thầy trò. Có những người thầy đã xa khuất mà tài năng, nhân cách vẫn tỏa sáng cho bao nhiều thế hệ mai sau. Có những học trò đỗ đạt, làm quan to nhưng khi trờ về thăm thấy cũ nơi làng quê hẻo lánh vẫn lễ phép, khiêm nhường như người trò ngày xưa…
Ngày nay, truyền thống tôn sư trọng đạo vẫn tiếp tục được giữ gìn và phát huy trong nhà trường và xã hội. Nghề giáo vẫn là nghề cao quý và được trọng vọng. Nhà nước và xã hội luôn quan tâm đến sự nghiệp trồng người.Nhà nước xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, có nhiều chính sách ưu tiên cho sinh viên sư phạm- những người thầy trong tương lai. Trong nhà trường, học trò tôn trọng, nghe lời thầy cô, học điều hay lẽ phải.Các gia đình cũng luôn chú trọng đến việc học hành của con em mình. Không khí dân chủ giúp mối quan hệ thầy – trò gần gũi, chan hòa hơn, tạo điều kiện để thầy giúp trò phát huy vai trò chủ động trong học tập. Ở cấp học nào, tiếng nói của thầy giáo, cô giáo vẫn có tác động vô cùng lớn đến sự hình thành, phát triển nhân cách của mỗi con người. Nhiều khi, học trò có thể tâm sự, chia sẻ với thầy, có nhiều điều không nói được vói cha mẹ và người thân. Phụ huynh học sinh tin cậy gửi gắm con em cho nhà trường và thầy cô.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề còn gây khó khăn cho người thầy như tiền lương nhận được chưa đi đảm bảo cho người thầy một mức sống trung bình. Thực trạng này khiến không ít các thầy, cô phải làm thêm để kiếm sống – vừa mất đi thời gian, sức lực lẽ ra phải dành cho việc giảng dạy, vừa làm suy giảm hình ảnh người thầy. Đây đó, cũng có những giáo viên không đứng vững trước “cơn bão thị trường” đã làm giảm sút sự trân trọng của xã hội đối với người thầy… Đồng thời mức lương thực tế được tạo nên sự so sánh với các ngành, nghề khác, khiến học sinh giỏi có tâm lí ngại làm nghề dạy học . còn có những người nhận thức nông cạn hành xử thô lỗ với thầy (chỉ vì ảnh hưởng những trào lưu văn hóa lai căng, nhiều phụ huynh vì bênh con thái quá khi con bị thầy cô khiển trách, nhắc nhở đã gây khó dễ, áp lực cho thầy cô, không có sự tôn trọng thầy cô.
Như vậy, trước những biến đổi của xã hội, nhà trường và xã hội cần có những biện pháp quan tâm, những chính sách định hướng để truyền thống tôn sư trọng đạo ngày càng được phát huy.
Câu 2:
Nét đẹp văn hóa gây ấn tượng nhất trong Tết Nguyên đán là mọi thành viên trong gia đình được sum họp bên nhau ấm áp.
Trong cuộc sống thường nhật, mọi người vì phải lo toan cho cuộc sống mưu sinh nên thường bận rộn, ít có dịp gần gũi nhau
Ngày Tết mọi người được nghỉ làm, quây quần bên nhau hạnh phúc, kể cho nhau nghe chuyện đã qua, và hướng nhau tới những điều tốt đẹp
Câu 3:
Hủ tục cần bài trừ trong ngày Tết Việt Nam:
Những hoạt động ăn nhậu liên miên, say xỉn điều khiển các phương tiện giao thông gây nguy hiểm cho mọi người
Nhiều người buôn thần bán thánh, lợi dụng niềm tin của người khác nhằm trục lợi cá nhân
Tệ nạn cờ bạc, cá độ gia tăng nhanh chóng
Bài soạn “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” số 5
Câu 1: Tác giả phân tích đặc điểm của vốn văn hóa dân tộc dựa trên những phương diện cụ thể nào của đời sống vật chất và tinh thần?
Tác giả Trần Đình Hượu đã phân tích đặc điểm vốn văn hóa của dân tộc trên cơ sở những phương diện cụ thể sau:
– Tôn giáo, nghệ thuật (kiến trúc, hội họa văn học):
– Ứng xử (giao tiếp cộng đồng, tập quán): trọng tình nghĩa không chú ý nhiều đến trí dũng, khéo léo nhưng không cầu thị, cực đoan, thích yên ổn.
– Sinh hoạt (ăn, ở, mặc) ưa chừng mực, vừa phải:
– Quan niệm về cái đẹp trong suy nghĩ của người Việt: vừa xinh, vừa khéo.
=> Có thể nói đoạn trích đã nêu được những nét đặc thù của vốn văn hóa Việt Nam để tiếp tục phát huy những giá trị đó trong thời kì hiện đại.
Câu 2. Theo tác giả, đặc điểm nổi bật nhất trong sáng tạo văn hóa của Việt Nam là gì? Đặc điểm này nói lên thế mạnh gì của vốn văn hóa dân tộc? Lấy dẫn chứng để làm sáng tỏ luận điểm này.
– Đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hóa Việt Nam là: Văn hóa Việt Nam giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hòa trên mọi phương diện.
– Dẫn chứng:
+ Công trình kiến trúc chùa Một Cột, các lăng tẩm của vua chúa đời Nguyễn…
+ Lời ăn tiếng nói của nhân dân trong tục ngữ, thành ngữ và ca dao…
+ Có thể đối chiếu với thực tế đời sống của các dân tộc khác…
Câu 3. Những đặc điểm nào có thể xem là hạn chế của vốn văn hóa dân tộc?
– Do tính chất trọng sự dung hòa trong tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần và vật chất nên văn hóa Việt Nam chưa có một vóc lớn lao, chưa có một vị trí quan trọng, chưa nổi bật và chưa có khả năng tạo được ảnh hưởng sâu sắc tới các nền văn hóa khác.
Câu 4. Những tôn giáo nào có ảnh hưởng mạnh nhất đến văn hóa truyền thống Việt Nam? Người Việt Nam đã tiếp nhận tư tưởng của các tôn giáo này theo hướng nào để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc? Tìm một số ví dụ trong nền văn học để làm sáng tỏ vấn đề này.
– Những tôn giáo có ảnh hưởng mạnh đến văn hóa truyền thống Việt Nam là: Phật giáo và Nho giáo, tuy từ ngoài du nhập vào nhưng đều để lại dấu ấn sâu sắc trong bản sắc dân tộc.
Câu 5. Nhận định: “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa” nhằm nêu lên mặt tích cực hay hạn chế của văn hóa Việt Nam? Hãy giải thích rõ vấn đề này?
– Khi nhận xét: “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa”, tác giả không hàm nghĩa khen hay chê, cũng không thiên về đánh giá tích cực hay tiêu cực.
– Giải nghĩa: sau khi nêu những điểm “không đặc sắc” (hạn chế) của văn hóa Việt Nam (không đồng nghĩa với việc “chê”) tác giả lại khẳng định: “người Việt Nam có nền văn hóa của mình” (không đồng nghĩa với việc “khen”). Cách lập luận của tác giả không hề mâu thuẫn. Bởi theo tác giả, việc đi tìm cái riêng của văn hóa Việt Nam không nhất thiết phải gắn liền với việc phải chứng minh nhân dân, dân tộc Việt Nam không thua kém các dân tộc khác ở điểm mà thế giới đã thừa nhận là rất nổi bật ở các dân tộc ấy. Nỗ lực chứng minh như vậy là một nỗ lực vô vọng. – Hơn nữa tác giả quan niệm văn hóa là sự tổng hoà của nhiều yếu tố, trong đó lối sống, quan niệm sống là yếu tố then chốt khi quan sát thấy người Việt Nam có lối sống riêng, quan niệm sống riêng, tác giả hoàn toàn có cơ sở để khẳng định: người Việt Nam có nền văn hóa riêng.
Câu 6. Vì sao có thể khẳng định: “Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa không chỉ trông cậy vào sự tạo tác của chính dân tộc đó, mà còn trông cậy vào khả năng chiêm lĩnh, khả năng đồng hóa các giá trị của văn hóa bên ngoài, về mặt đó, lịch sử đã chứng minh là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh”. Hãy liên hệ với thực tế lịch sử và văn học Việt Nam để làm sáng tỏ vấn đề này.
a. Nội dung chính nhận xét này của tác giả Trần Đình Hượu là: Văn hóa Việt Nam cũng như mọi nền văn hóa khác, vừa là sản phẩm của dân tộc sáng tạo nên, vừa là sản phẩm chế tác, “đồng hóa” từ các yêu tố của nền văn hóa dân tộc khác.
b. Chứng minh
– Về lịch sử: dân tộc ta trải qua một thời gian dài bị đô hộ, áp bức và đồng hóa. Những giá trị văn hóa gốc phần nhiều đã bị mai một, xóa nhòa. Bởi vậy, văn hóa Việt Nam không thể trông cậy vào khả năng tạo tác mà phải trông cậy vào khả năng chiếm lĩnh, khả năng đồng hóa các giá trị văn hóa bên ngoài là một yếu tố.
– Văn hóa Việt Nam ảnh hưởng đạo Phật nhưng đạo Phật đã bị “Việt hóa” khi vào Việt Nam: người Việt Nam không tiếp thu toàn bộ giáo lí của đạo Phật mà chỉ tiếp thu lòng nhân ái, bao dung, vô lượng, cùng những yếu tố nhân văn tích cực khác của Phật.
– Văn hóa Việt Nam cũng tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, nhưng cũng “Việt hóa” theo tinh thần “thiết thực, linh hoạt, dung hòa”.
– Văn hóa Việt Nam cũng tiếp thu những tư tưởng của văn hóa phương Tây hiện đại nhưng cũng “Việt hóa” trên tinh thần độc lập dân tộc.
LUYỆN TẬP
Câu 1: Hướng dẫn:
– Giải thích nghĩa của thành ngữ: “tôn sư trọng đạo”.
– Những biểu hiện của truyền thống này trong thời đại xưa và nay?
– Những suy nghĩ về truyền thống này trong nhà trường và xã hội hiện nay.
+ Đã và đang được phát huy một cách tốt đẹp.
+ Có những hiện tượng lợi dụng, lạm dụng cần lên án và xóa bỏ.
Câu 2: Hướng dẫn: Có thể lựa chọn một trong những nét đẹp sau.
– Luộc bánh chưng: cả gia đình đoàn tụ quây quần thể hiện tinh thần đoàn kết, hướng về cội nguồn.
– Đi chúc Tết: thể hiện mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với người thân, bạn bè.
– Trồng cây ngày Tết: Do Bác Hồ phát động thể hiện mong muốn một năm mới nhiều may mắn, phát tài phát lộc,…
Những nét đẹp văn hóa trên đều là những truyền thống văn hóa cần được bảo tồn và phát huy.
Câu 3: Có thể lựa chọn: tụ tập rượu chè, đốt vàng mã, cúng bái,… Đây đều là những tàn dư phong kiến còn sót lại, là sản phẩm của thái độ chây lười, mê tín dị đoan có hại cho đời sống cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
Bài soạn “Nhìn về vốn văn hóa dân tộc” số 6
I. Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Trần Đình Hượu (1926 – 1995) quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ông chuyên nghiên cứu các vấn đề lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam trung cận đại.
Các tác phẩm chính: Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930 (1988), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại (1995), Đến hiện đại từ truyền thống (1996), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông (2001),v.v…
2. Tác phẩm
Văn bản trích từ công trình Đến hiện đại từ truyền thống, phần Về vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc, mục 5, phần II và toàn bộ phần III. Nhan đề do người biên soạn đặt. Đoạn trích thể hiện một cái nhìn khá toàn diện và sâu sắc của tác giả về những đặc trưng văn hóa của dân tộc Việt Nam.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Trong đoạn trích, tác giả Trần Đình Hượu đã đề cập đến những đặc điểm của văn hóa truyền thống Việt Nam trên các cơ sở:
+ Tôn giáo.
+ Nghệ thuật (kiến trúc, hội họa, văn học).
+ Ứng xử (giao tiếp cộng đồng, tập quán).
+ Sinh hoạt (ăn, ở, mặc).
Câu 2 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
– Đặc điểm nổi bật của sáng tạo văn hóa Việt Nam là: Văn hóa Việt Nam giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hòa trên mọi phương diện.
– Đặc điểm này nói lên thế mạnh của vốn văn hóa dân tộc: tạo ra cuộc sống thiết thực bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng thanh lịch sống có tình nghĩa có văn hóa trên một cái nền nhân bản.
Các ví dụ:
– Các công trình kiến trúc nổi tiếng: Chùa Một Cột, kiến trúc Cung đình Huế, Hoàng thành Thăng Long…
– Các câu tục ngữ, ca dao: “Người thanh nói tiếng cũng thanh / Chuông kêu chuông đánh bên thành cũng kêu”, “Lời chào cao hơn mâm cỗ”…
Câu 3 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Hạn chế của vốn văn hóa dân tộc:
– Đời sống tinh thần và vật chất: dung hòa trong tất cả nên đời sống chưa có một vóc lớn lao, chưa có vị trí quan trọng, chưa nổi bật, chưa ảnh hưởng sâu sắc tới các nền văn hóa khác.
– Tôn giáo, nghệ thuật: Ít quan tâm đến tôn giáo nên tôn giáo không phát triển, không có các công trình kì vĩ, tráng lệ. Âm nhạc, hội họa, kiến trúc đều không phát triển đến tuyệt kĩ.
– Quan niệm về lí tưởng: không có khát vọng và sáng tạo lớn trong cuộc sống, chấp nhận cái gì vừa phải, không ca tụng trí tuệ mà đề cao sự khôn khéo.
Câu 4 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Những tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa truyền thống của Việt Nam: Phật giáo, Nho giáo.
Người Việt Nam đã tiếp nhận những tư tưởng tôn giáo này trên cơ sở chọn lọc những tư tưởng tiến bộ, nhân văn của những tôn giáo đó để tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
Ví dụ: Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Câu thơ của Nguyễn Trãi có sự kế thừa từ tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử.
Câu 5 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Nhận định “Tinh thần chung của văn hóa Việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hòa” nhằm nêu lên mặt tích cực của văn hóa Việt Nam. Đó không phải là sự sáng tạo, tìm tòi, khai phá nhưng nó khẳng định được sự khéo léo, uyển chuyển của người Việt trong việc tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại để tạo nên những nét độc đáo của văn hóa Việt Nam.
Câu 6 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Có thể khẳng định: “Con đường hình thành bản sắc dân tộc của văn hóa không chỉ trông cậy vào sự tạo tác chân chính dân tộc đó… là dân tộc Việt Nam có bản lĩnh” bởi:
– Về lịch sử: dân tộc ta đã trải qua một thời gian dài bị đô hộ, áp bức, đồng hóa nên chúng ta không thể trông cậy vào khả năng tạo tác (sự sáng tạo của dân tộc).
– Về chữ viết: Sáng tạo chữ Nôm trên cơ sở chữ Hán.
– Về văn học: Sáng tạo các thể thơ dân tộc đi đôi với việc vận dụng, Việt hóa các thể thơ Đường luật của Trung Quốc, thể thơ tự do, phóng khoáng của phương Tây…
⇒ Chúng ta tiếp thu nhưng không hề rập khuôn máy móc văn hóa của quốc gia khác.
III. Luyện tập
Câu 1 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Gợi ý:
– Giải thích nghĩa của thành ngữ: “tôn sư trọng đạo”.
– Những biểu hiện của truyền thống này trong thời đại xưa và nay?
– Những suy nghĩ về truyền thống này trong nhà trường và xã hội hiện nay.
+ Đã và đang được phát huy một cách tốt đẹp.
+ Có những hiện tượng lợi dụng, lạm dụng cần lên án và xóa bỏ.
Câu 2 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Gợi ý:
Có thể lựa chọn một trong những nét đẹp sau.
– Luộc bánh chưng: cả gia đình đoàn tụ quây quần thể hiện tinh thần đoàn kết, hướng về cội nguồn.
– Đi chúc tết: thể hiện mong muốn những điều tốt đẹp sẽ đến với người thân, bạn bè.
– Trồng cây ngày tết: Do Bác Hồ phát động thể hiện mong muốn một năm mới nhiều may mắn, phát tài phát lộc,…
Những nét đẹp văn hóa trên đều là những truyền thống văn hóa cần được bảo tồn và phát huy.
Câu 3 (trang 162 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):
Có thể lựa chọn: tụ tập rượu chè, đốt vàng mã, cúng bái, … Đây đều là những tàn dư phong kiến còn sót lại, là sản phẩm của thái độ chây lười, mê tín dị đoan có hại cho đời sống cá nhân, gia đình và toàn xã hội.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.