Giao tiếp luôn là vấn đề cơ bản trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người. Mỗi ngày chúng ta nói chuyện, giao tiếp với bạn bè, người thân, đối tác, ở mọi nơi như … xem thêm…trong gia đình, nơi công cộng, công ty, nơi làm việc… Ai ai cũng đều hiểu được tầm quan trọng của giao tiếp. Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta lại càng phải chú ý đến cách xưng hô sao cho đúng phép trong cuộc giao tiếp của mình. Vì vậy mà xưng hô trong giao tiếp cần phải được rèn luyện và được đưa vào trong quá trình học tập là điều tất yếu. Trong chương trình Ngữ văn 9 tập 1 có bài học “Xưng hô trong hội thoại” giúp học sinh nhận biết được vai trò quan trọng của xưng hô đúng chuẩn mực, biết lựa chọn cách xưng hô phù hợp với đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về điều này.
Bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” số 1
I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
Câu 1. Một số từ ngữ thường dùng để xưng hô trong tiếng Việt: tôi – chúng tôi; bạn – các bạn; nó – chúng nó (họ); ta – chúng ta; anh, bác, ông – các anh, các bác, các ông; tao – chúng tao; mày – chúng mày; anh ấy, chị ấy, …
– Tao – chúng tao, mày – chúng mày, anh ấy, chị ấy…
Câu 2.
a, Dế Mèn- nhân vật kể chuyện xưng “tôi”
– Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt: ban đầu là anh- chú mày, về sau là tôi – anh
– Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: ban đầu là em – anh , về sau tôi – anh
Trong đoạn (1), hai nhân vật rất khác nhau, xưng hô hô vị thế kẻ mạnh, kiêu căng, hách dịch với kẻ yếu
– Đoạn (2) có sự thay đổi tình huống, vị thế giao tiếp. Dế Choắt – Dế mèn xưng hô bình đẳng như những người bạn
II. Luyện tập
Bài 1 (trang 39 sgk ngữ văn 9 tập 1)
– Chúng ta: người nói với người nghe
– Chúng tôi/ chúng em: không gồm người nghe
– Chúng mình: có thể gồm người nghe hoặc không
– Cô học viên nhầm từ xưng hô “chúng ta”, dễ dẫn tới hiểu lầm: cô và giáo sư sẽ làm lễ thành hôn
– Cần thay từ chúng ta bằng từ: chúng em hoặc chúng tôi
Bài 2 (trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)
Trong văn bản khoa học, mặc dù tác giả văn bản chỉ gồm 1 người nhưng người ta vẫn xưng là chúng tôi
Việc dùng “chúng tôi” dụng ý làm tăng tính khách quan ngôn ngữ khoa học, thể hiện sự khiêm tốn của tác giả
– Khi tác giả văn bản khoa học xưng tôi, tác giả muốn nhấn mạnh quan điểm cá nhân của mình trước vấn đề nào đó.
Bài 3 (trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)
Truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường
– Cách xưng hô giữa Gióng với sứ giả: ta – ông
– Cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé kì lạ, khác thường, chững chạc
→ Đối với mẹ, Gióng là đứa trẻ, đối với quốc gia, Gióng là người hùng
Bài 4 (Trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)
Câu chuyện kể về vị danh tướng, dù đã là nhân vật nổi tiếng, có quyền có chức trọng nhưng khi gặp thầy cũ xưng hô: em – thầy
– Cách xưng hô thể hiện thái độ tôn trọng, sự khiêm tốn, lịch sự với người thầy của mình
→ Câu chuyện giáo dục về tinh thần “tôn sư trọng đạo”
Bài 5 (Trang 40 sgk ngữ văn 9 tập 1)
Trước Cách mạng tháng tám 1945, đất nước phong kiến, người đứng đầu nhà nước xưng “trẫm” với bề tôi, kẻ dưới
Việc Bác, chủ tịch nước, người đứng đầu nước Việt Nam mới xưng “tôi” gọi nhân dân là “đồng bào”
→ Người nghe cảm giác gần gũi người nói với người nghe
Bài 6 (trang 41 sgk ngữ văn 9 tập 1)
– Cách xưng hô trong đoạn văn thứ nhất thể hiện rõ cách biệt về địa vị, hoàn cảnh giữa
+ Chị Dậu: người dân thấp cổ bé họng, thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông
+ Cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền thế nên hống hách, xưng hô ông – thằng kia, mày
Cuối cùng khi bị o ép, dồn đến đường cùng chị Dậu chuyển sang xưng tôi – ông, rồi bà – mày
→ Cách xưng hô thể hiện sự “tức nước- vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị
Bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” số 2
Phần I
Trả lời câu 1 (trang 38 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Hãy nêu một số từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt và cho biết cách dùng những từ ngữ đó?
Trả lời:
Một số từ ngữ dùng đế xưng hô trong tiếng Việt: tôi, mình, cậu, tớ, anh, chị, chúng tôi, bọn mày, bọn tao…
– Khi để xưng, người nói dùng: tôi, mình, tớ…. với người đối thoại gọi là cậu, anh, chị….
– Nếu dùng ở số nhiều: chúng tôi, bọn mày, bọn tao…
Trả lời câu 2 (trang 38 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Xác định các từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích trên? Phân tích sự thay đổi về cách xưng hô của Dế Mèn và Dế Choắt trong đoạn trích (a) và đoạn trích (b). Giải thích sự thay đổi đó.
Trả lời:
* Từ ngữ xưng hô trong hai đoạn:
– Dế Mèn – nhân vật kể chuyện xưng “tôi”
– Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt: ta – chú mày trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).
– Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn: em – anh trong đoạn trích (1), tôi – anh trong đoạn trích (2).
* Phân tích và giải thích sự thay đổi từ ngữ xưng hô.
– Trong đoạn trích thứ nhất, sự xưng hô của hai nhân vật rất khác nhau, đó là sự xưng hô bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu, cảm thấy mình thấp hèn, cần nhờ vả người khác và một kẻ ở vị thế mạnh, kiêu căng và hách dịch. Nhưng trong đoạn trích thứ hai, sự xưng hô thay đổi hẳn, đó là sự xưng hô bình đẳng (tôi – anh), không ai thấy mình thấp hơn hay cao hơn người đôi thoại.
– Có sự thay đổi về xưng hô như vậy vì tình huống giao tiếp thay đổi, vị thế của hai nhân vật không còn như trong đoạn trích thứ nhất nữa. Dế Choắt không còn coi mình là đàn em, cần nhờ vả, nương tựa Dế Mèn nữa mà nói với Dế Mèn những lời trăng trối với tư cách là một người bạn.
Phần II: LUYỆN TẬP
Trả lời câu 1 (trang 39 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Có lần , một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ:
Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự.
Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?
Lời giải chi tiết:
– Ngôn ngữ châu Âu có từ xưng là 1 từ để chỉ số phức (như “we” trong tiếng Anh) nên có thể dịch sang tiếng Việt là chúng tôi hoặc chúng ta tùy thuộc vào tình huống.
– Do ảnh hưởng của thói quen trong tiếng mẹ đẻ nên cô học viên có sự nhầm lẫn, làm cho ta có thể hiểu lễ thành hôn là của cô học viên và vị giáo sư Việt Nam.
Trả lời câu 2 (trang 40 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?
Lời giải chi tiết:
Việc dùng chúng tôi thay cho tôi trong các văn bản khoa học nhằm tăng thêm tính khách quan cho những luận điểm khoa học trong văn bản. Ngoài ra, việc xưng hô này còn thể hiện sự khiêm tốn của tác giả.
Trả lời câu 3 (trang 40 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?
Lời giải chi tiết:
– Đứa bé gọi mẹ của mình theo cách gọi thông thường. Nhưng xưng hô với sứ giả thì sử dụng những từ ta – ông. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé khác thường.
– Mặt khác, điều đó báo trước, đối với người mẹ, Gióng chỉ là một đứa trẻ, nhưng đối với quốc gia, xã hội, Gióng sẽ là một người anh hùng.
Trả lời câu 4 (trang 40 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện.
Lời giải chi tiết:
Vị tướng, tuy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng vẫn gọi thầy cũ của mình là thầy và xưng là em. Ngay khi người thầy giáo già gọi vị tướng là ngài thì ông vẫn không hề thay đổi cách xưng hô. Cách xưng hô đó thể hiện thái độ kính cẩn và lòng biết ơn của vị tướng đốì với thầy giáo của mình. Đó quả là bài học sâu sắc về tinh thần “tôn sư trọng đạo”, rất đáng đế noi theo.
Trả lời câu 5 (trang 40 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác.
Lời giải chi tiết:
Trước năm 1945, đất nước ta còn là một nước phong kiến. Người đứng đầu nhà nước là vua. Vua không bao giờ xưng với dân chúng của mình là tôi, mà xưng là trẫm. Việc Bác, người đứng đầu nhà nước Nam mới, xưng là tôi và gọi dân chúng là đồng bào tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết với người nói, đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân trong một đất nước dân chủ.
Trả lời câu 6 (trang 41 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua ách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay đổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.
Lời giải chi tiết:
– Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích này là của một kẻ có vị thế, quyền lực (cai lệ) và một người dân bị áp bức (chị Dậu).
– Cách xưng hô của cai lệ thể hiện sự trịch thượng, hống hách. Còn cách xưng hô của chị Dậu ban đầu hạ mình, nhẫn nhục (nhà cháu – ông), nhưng sau đó thay đổi hoàn toàn: tôi – ông, rồi bà – mày. Sự thay đổi cách xưng hô đó thể hiện sự thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của nhân vật. Nó thể hiện sự phản kháng quyết liệt của con người khi bị dồn đến bước đường cùng.
Bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” số 3
I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
Câu 1 trang 38 SGK NGữ văn 9 tập 1: Hãy nêu một số từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô trong Tiếng Việt và cho biết cách dùng những từ ngữ đó.Trả lời:
Một số từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt:
– Đại từ: tôi, bạn, mình, chúng tôi, họ,….
– Danh từ: cô, chú, anh, chị, em,….
* Cách dùng:
– Ngôi thứ nhất: tôi, tao,… chúng tôi, chúng tao…
– Ngôi thứ hai: Mày, mi, chúng mày,…
– Ngôi thứ ba: nó, hắn, chúng nó, họ,…
– Suồng sã: mày, tao,…
– Thân mật: anh, chị, em, cậu, tớ, mình,…
– Trang trọng: quí ông, quí bà, quí vị…
* Tiếng Việt có một hệ thống xưng hô rất phong phú
Câu 2 trang 38, 39 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc các đoạn trích trong SGK Ngữ văn 9 tập 1 (trích từ tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài) và thực hiện yêu cầu sau:
Xác định các từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích trên? Phân tích sự thay đổi về cách xưng hô của Dế Mèn và Dế Choắt trong đoạn trích (a) và đoạn trích (b). Giải thích sự thay đổi đó.
Trả lời:
Các từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích:
– Đoạn thứ nhất: em – anh (của Dế Choắt đối với Dế Mèn); ta – chú mày (của Dế Mèn đối với Dế Choắt)
– Đoạn thứ hai: tôi – anh (của Dế Choắt đối với Dế Mèn và của Dế Mèn đối với Dế Choắt)
* Trong đoạn trích thứ nhất, sự xưng hô của hai nhân vật rất khác nhau, đó là sự xưng hô bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu, cảm thấy mình thấp hèn, cần nhờ vả người khác và một kẻ ở vị thế mạnh, kiêu căng và hách dịch. Nhưng trong đoạn trích thứ hai, đó là sự xưng hô bình đẳng, không ai thấy mình thấp hơn hay cao hơn người đối thoại.
* Có sự thay đổi về xưng hô như vậy vì tình huống giao tiếp thay đổi, vị thế của hai nhân vật không còn như trong đoạn trích thứ nhất nữa. Dế Choắt không còn coi mình là đàn em, cần nhờ vả, nương tựa Dế Mèn nữa mà nói với Dế Mèn những lời trăn trối với tư cách là một người bạn.
Vì thế chọn từ ngữ xưng hô phải tuỳ thuộc vào tình huống giao tiếp.
Ghi nhớ:
– Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất phong phú, tinh tế và giàu sắc thái biểu cảm.
– Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp
II. Luyện tập
Câu 1 trang 39 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Có lần một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ: “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”. Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?
Trả lời:
– Chúng em/chúng tôi: nhóm 2 người trở lên, trong đó có người nói nhưng không có người nghe.- Chúng ta: nhóm 2 người trở lên, trong đó có cả người nói và cả người nghe.Dẫn đến việc gây hiểu lầm là lễ thành hôn giữa cô học viên và vị giáo sư.
Câu 2 trang 40 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?
Trả lời:
– Trong các văn bản khoa học, việc dùng chúng tôi thay cho tôi nhằm tăng thêm tính khách quan cho những luận điểm khoa học trong văn bản.- Ngoài ra, cách xưng hô này còn thể hiện sự khiêm tốn của tác giả.
Câu 3 trang 40 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc đoạn trích sau:
Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây.”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.”.
(Thánh Gióng)
Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
Trong truyện Thánh Gióng, đứa bé gọi mẹ của mình theo cách gọi thông thường. Nhưng xưng hô với sứ giả thì sử dụng những từ “ta – ông”. Cách xưng hô như vậy cho thấy Thánh Gióng là một đứa bé khác thường.
Câu 4 trang 40 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện sau: Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:
– Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là… Người thầy giáo già hoảng hốt:
– Thưa ngài, ngài là…
– Thưa thầy, với thầy, con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…
Trả lời:
Cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện trên đã thể hiện thái độ kính cẩn và lòng biết ơn của vị tướng đối với thầy giáo của mình. Đây là bài học sâu sắc về tinh thần tôn sư trọng đạo, rất đáng để noi theo.
Câu 5 trang 40, 41 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc đoạn trích sau:
Đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:
– Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?
Một triệu con người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm:
– Co…o…ó…!
Từ phút giây đó, Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một…
(Võ Nguyên Giáp kể, Nguyễn Hữu Mai ghi, Những năm tháng không thể nào quên)
Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)
Trả lời:
Trước năm 1945, đất nước ta còn là một nước phong kiến. Người đứng đầu nhà nước là vua. Vua không bao giờ xưng với người dân là “tôi” mà xưng là “trẫm”. Do vậy, khi Bác, người đứng đầu nhà nước Việt Nam mới xưng là “tôi” và gọi dân chúng là “đồng bào” tạo cho người nghe cảm giác gần gũi, thân thiết với người nói, đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân trong một đất nước dân chủ.
Câu 6 trang 41, 42 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Đọc đoạn trích trang 41 SGK Ngữ văn 9 tập 1 và chú ý những từ in đậm rồi trả lời câu hỏi sau:
Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay đổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.
Trả lời:
Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích này là của một kẻ có vị thế, quyền lực (cai lệ) và một người dân bị áp bức (chị Dậu). Cách xưng hô của cai lệ thể hiện sự trịch thượng, hống hách. Còn cách xưng hô của chị Dậu ban đầu thì hạ mình, nhẫn nhục (nhà cháu – ông), nhưng sau đó thay đổi hoàn toàn: “tôi – ông”, rồi “bà – mày”. Sự thay đổi cách xưng hô đó thể hiện sự phản kháng quyết liệt của một con người bị dồn đến bước đường cùng.
Bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” số 4
I. Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
1) Một số từ ngữ để xưng hô trong Tiếng Việt
Một số từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt: tôi, mình, cậu, tớ, anh, chị, chúng tôi, bọn mày, bọn tao…
– Khi để xưng, người nói dùng: tôi, mình, tớ…. với người đối thoại gọi là cậu, anh, chị….
– Nếu dùng ở số nhiều: chúng tôi, bọn mày, bọn tao…
2) Xác định các từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích
+ Từ ngữ xưng hô trong đoạn trích 1: Em — anh (của Dế Choắt nối với Dế Mèn). Ta – chú mày (của Dế Mèn nói với Dế Choắt).
+ Từ ngữ xưng hô trong đoạn trích 2: Tôi — anh (của Dế Choắt nói với Dế Mèn và của Dế Mèn nói với Dế Choắt).
_ Phân tích sự thay đổi cách xưng hô của Dế Mèn và Dế Choắt trong hai đoạn trích.
Trong đoạn trích 1, sự xưng hô của hai nhân vật rất khác nhau, đó là sự xưng hô bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu, cảm thấy mình thấp hèn cần nhở vả người khác là một kẻ vị thế mạnh, kiêu căng hách dịch.
Nhưng trong đoạn trích 2, sự xưng hô đã thay đổi hẳn, đó là sự xưng hô bình đẳng (Tôi – Anh) không ai thấy mình thẩp hơn hay cao hơn người đối thoại.
Sở dĩ có sự thay đổi đó vì tình huống giao tiếp đã khác, vì thế hai nhân vật không còn như trong đoạn trích thứ nhất nữa. Dế Choắt đã không còn tự coi mình là đàn em, cần nhờ vả nương tựa Dế Mèn nữa mà nói với Dế Mèn những lời trăn trối với tư cách là một người bạn.
II LUYỆN TẬP
♦ Bài tập l.
Ở đây, học viên người Châu Âu dùng chúng ta thay vì chúng em. Điều này có thể gây hiểu lầm là lễ thành hôn là của cô học viên này và vị giáo sư Việt Nam.
Cần lưu ý là trong tiếng Việt, có sự phân biệt cách thức xưng hô chỉ “ngôi gộp” (chỉ một nhóm ít nhất là hai người, trong đó có cả người nói và cả người nghe như chúng ta) và cách thức xưng hô chủ “ngôi trừ” (chỉ một ngóm ít nhất là hai người, trong đó có người nói nhưng không có người nghe như chúng tôi, chúng Ngoài ra, còn có cách thức xưng hô vừa có thể được dùng để chỉ ngôi gộp vừa có thể được dùng để chỉ ngôi trừ như chúng mình. Còn ngôn ngữ châu Âu thì khác, không có sự phân biệt rạch ròi như we (tiếng Anh) là chúng tôi, chúng ta tùy thuộc vào tình huống.
Cô học viên nhầm lẫn do ảnh hưởng thói quen trong tiếng mẹ đẻ.
♦ Bài tập 2.
Trong các văn bản khoa học, việc dùng chúng tôi thay cho tôi nhằm tăng tính khách quan và thể hiện sự khiêm tốn của tác giả.
Tuy nhiên khi bút chiến, tranh luận nghĩa là khi cần nhấn mạnh ý kiến riêng của cá nhân thì dùng tôi thích hợp hơn.
♦ Bài tập 3.
Gọi mẹ mình theo cách gọi thông thường nhưng xưng hô với sứ giả triều đình thì sử dụng những từ ta — ông, đứa bé trong truyện Thánh Gióng đúng là một đứa bé phi thường
♦ Bài tập 4.
Tuy đã nổi tiếng, có quyền cao chức trọng, nhưng vị tướng vẫn gọi thầy mình là thầy xưng con. Ngay cả khi thầy gọi vị tướng là ngài thì ông vẫn không thay đổi cách xưng hô. Điều này thể hiện thái độ kính cẩn và lòng tri ân chân thành đối với thầy học của vị tướng. Đúng là một bài học sâu sắc về tinh thần tôn sư trọng đạo.
♦ Bài tập 5.
Trước năm 1945, người đứng đầu nhà nước phong kiến là vua, tự xưng là trẫm. Việc Bác, người đứng đầu nhà nước mới xưng tôi và gọi dân chúng là đồng bào tạo cho người nghe cảm giác thân thiết gần gũi với người nói, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân trong một đất nước dân chủ.
♦ Bài tập 6.
Trong đoạn trích trên, các từ ngữ xưng hô đầy vẻ quyền lực có vị thế là của Cai Lệ, còn lại, các từ ngữ của người dân bị áp bức là của chị Dậu. Một đằng thể hiện sự trịch thượng hống hách, còn một đằng, ban đầu thì hạ mình nhẫn nhục (nhà cháu, ông), nhưng sau đó thì hoàn toàn đổi khác tôi, ông rồi bà, mày. Điều này thể hiện sự thay đổi thái độ và hành vi ứng xử của chị Dậu. Nói một cách khác là thể hiện sự phản kháng quyết liệt của người phụ nữ nông dân bị dồn đến bước đường cùng.
Bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” số 5
Từ ngữ xưng hô và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
Câu 1 (trang 38 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Hãy nêu một số từ ngữ dùng để xưng hô trong tiếng Việt và cho biết cách dùng những từ ngữ đó?
Trả lời
– Tiếng Việt có một hệ thống các từ ngữ xưng hô rất phong phú, tinh tế và giàu sắc thái biểu cảm.
Thí dụ: Tôi, ta, chúng ta, tớ, bọn tớ
Cách dùng: Tôi ta: thay thế cho một chủ thể đang phát biểu, chúng ta thay thể cho một nhóm người đang phát biểu, tớ cũng là một chủ thể đang phát biểu, nhưng mang sắc thái thân mật..
Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp.
Câu 2 (trang 38 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Đọc đoạn trích sau (Trích từ tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài) và thực hiện yêu cầu nêu bên dưới.
(1) Dế Choắt nhìn tôi mà rằng:
– Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh, phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…
Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi, với bộ điệu khinh khỉnh, tôi mắng:
– Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. Thôi, im cái điệu hát mưa dầm sùi sụt ấy đi. Đào tổ nông thì cho chết!
Tôi về, không chút bân tâm.
(2) Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế, tôi hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng:
– Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm! Tôi hói hận lắm. Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?
Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu thế này:
– Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy.
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí)
Xác định các từ ngữ xưng hô trong hai đoạn trích (SGK)? Phân tích sự thay đổi về cách xưng hô của Dế Mèn và Dế Choắt trong đoạn trích (a) và đoạn trích (b). Giải thích sự thay đổi đó.
Trả lời
a) Từ ngữ xưng hô: anh, em (Dế Choắt nói với Dế Mèn), chú mày, ta (Dế Mèn nói với Dế Choắt).
b) Từ ngữ xưng hô: tôi, anh (Dế Choắt với Dế Mèn và Dế Mèn nói với Dế Choắt).
– Đoạn (a): xưng hô bất bình đẳng giữa kẻ ở vị thế yếu (Dế Choắt) cần nhờ và kẻ ở vị thế mạnh, hách dịch (Dế Mèn).
– Đoạn (b): xưng hô bình đẳng.
Có sự thay đổi về xưng hô từ đoạn (a) sang đoạn (b) vì tình huống giao tiếp thay đổi: vị thế của Dế Choắt và Dế Mèn trở nên bình đẳng vì trước khi chết, Dế Choắt còn khuyên với Dế Mèn với tư cách là một người bạn.
Luyện tập
Câu 1 (Trang 39 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Có lần , một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ:
Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự.
Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?
Trả lời
Khác với tiếng Việt, ngôn ngữ Âu, Mĩ có từ xưng là I hay we, nhưng khi dịch ra tiếng Việt, tùy tình huống mà ta cần dịch là chúng tôi hay chúng ta. Bản dịch trong thí dụ này đã dịch sai, thay vì dùng chúng tôi thì họ đã dịch là chúng ta.
Câu 2 (Trang 40 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?
Trả lời
Trong các văn bản khoa học, mặc dù nhiều khi tác giả của văn bản chỉ có một người nhưng người viết vẫn xưng là chúng tôi chứ không dùng tôi nhằm tăng thêm tính khách quan cho những luận điểm khoa học trong văn bản, đồng thời chứng tỏ sự khiêm tốn của tác giả.
Câu 3 (Trang 40 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Đọc đoạn trích sau:
Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây.”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này.”.
(Thánh Gióng)
Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
– Chọn cách xưng hô
– Cậu bé làng Gióng gọi mẹ theo cách thông thường. Nhưng xưng hô với sứ giả, cậu bé sử dụng từ ông ta.
– Cách xưng hô này cho thấy đây là một cậu bé khác thường.
Câu 4 (Trang 40 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện.
Chuyện kể, một danh tướng có lần đi ngang qua trường học cũ của mình, liền ghé vào thăm. Ông gặp lại người thầy từng dạy mình hồi nhỏ và kính cẩn thưa:
– Thưa thầy, thầy còn nhớ con không? Con là…
Người thầy giáo già hoảng hốt:
– Thưa ngài, ngài là…
– Thưa thầy, với thầy, con vẫn là đứa học trò cũ. Con có được những thành công hôm nay là nhờ sự giáo dục của thầy ngày nào…
Trả lời
– Tuy đã trở thành một danh tướng quyên cao tướng trọng nhưng vẫn xưng em, gọi thây cũ là thấy một cách kính trọng.
=> Cách xưng hô này thể hiện tinh thần “tôn sư trọng đạo” đáng ca ngợi.
Câu 5 (Trang 40 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Đọc đoạn trích sau:
Đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” đến nửa chừng, Bác dừng lại và bỗng dưng hỏi:
– Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?
Một triệu con người cùng đáp, tiếng dậy vang như sấm:
– Co…o…ó…!
Từ phút giây đó, Bác cùng với cả biển người đã hòa làm một…
(Võ Nguyên Giáp kể, Nguyễn Hữu Mai ghi,
Những năm tháng không thể nào quên)
Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)
Trả lời
– Bác Hồ, chủ tịch nước xưng là tôi, gọi dân chúng là đồng bào tạo cảm giác gần gũi, thân thiết giữa người nghe với người nói.
– Cách xưng hô này đánh dấu mối quan hệ mới giữa lãnh tụ và nhân dân trong một đất nước dân chủ.
Câu 6 (Trang 41 sgk Ngữ văn 9 tập 1)
Đọc đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chú ý những từ ngữ in đậm.
Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ:
– Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!
Hoảng quá, anh Dậu vội để bát cháo xuống phản và lăn đùng ra đó, không nói được câu gì. Người nhà lí trưởng cười một cách mỉa mai:
– Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
– Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai, để ông ấy ra đình kêu với con cho! Chứ ông lí tôi thì không cso quyền dám cho chị khất thêm một giờ nào nữa.
Chị Dậu run run:
– Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu của chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu? Hai ông làm phúc nói với ông lí cho cháu khất…
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
– Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất?
Chị Dậu vẫn thiết tha:
– Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin ông trông lại!
Cai lệ giọng vẫn hầm hè:
– Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ dỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à!
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:
– Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia!
Người nhà lí trưởng hình như không dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng, ngơ ngác, muốn nói mà không dám nói. Đùng đùng, cai lệ giật phắ cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu.
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
– Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
– Tha này! Tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi lại sấn đến để trói anh Dậu.
Hình như tức quá không thể chịu được nữa, chị Dậu liều mạng cự lại:
– Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!
Cai lệ tát vào mặt chị một cái đánh bốp, rồi cứ nhảy vào cạnh anh Dậu.
Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
– Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay dổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.
Trả lời
Đoạn đầu, cách xưng hô ở lời nói của cai lệ nói với anh Dậu, chị Dậu: thằng kia, ông, mày, chị… thể hiện rõ sự cách biệt về địa vị và hoàn cảnh giữa các nhân vật.
Chị Dậu, người dân thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông;
Cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền, cậy thế nên hống hách, thể hiện sự hống hách, trich thượng.: xưng hô ông – thằng kia, mày.
Sang đoạn sau, cách xưng hô thay đổi. Chị Dậu chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện sự “tức nước – vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.
Bài soạn “Xưng hô trong hội thoại” số 6
I. Từ ngữ xưng hồ và việc sử dụng từ ngữ xưng hô
Ví dụ 1.
Một số từ ngữ dùng để xưng hô: Tôi, ta, tớ, tao, chúng tôi, anh, chị, em, ông ấy…
Cách dùng:
Ngôi thứ nhất: Tôi, tao, chúng tôi, chúng tao…
Ngôi thứ hai: Mày, mi, chúng mày…
Ngôi thứ ba: họ, hắn, chúng nó, nó….
=>Hệ thống từ ngữ xưng hô rất phong phú, giàu sắc thái biểu cảm.
Trả lời ví dụ 2:
Các từ xưng hô:
Đoạn 1: anh, em (Dế Choắt nói với Dế Mèn); chú mày, ta (Dế Mèn nói với Dế Choắt)
Đoạn 2: tôi, anh (Dế Choắt – Dế Mèn nói với nhau)
Phân tích sự thay đổi cách xưng hô:
Đoạn 1: Xưng hô bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu, cảm thấy mình thấp hèn, nhờ vả người khác; và một kẻ ở vị thế mạnh, kiêu căng, hách dịch.
Đoạn 2: Xưng hô bình đẳng. Có sự thay đổi về xưng hô. Vì tình huống giao tiếp có thay đổi: Dế Choắt nói với Dế Mèn những lời trăng trối với tư cách là một người bạn.
=> Cần căn cứ vào đối tượng và tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp.
Ghi nhớ: SGK
Câu 1: Có lần, một giáo sư Việt Nam nhận được thư mời dự đám cưới của một nữ học viên người châu Âu đang học tiếng Việt. Trong thư có dòng chữ: “Ngày mai, chúng ta làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự”. Lời mời trên có sự nhầm lẫn trong cách dùng từ như thế nào? Vì sao có sự nhầm lẫn đó?
Trả lời:
Lời mời có sự nhầm lẫn trong “chúng ta” với “chúng em” (chúng tôi) vì:
Chúng ta: gồm cả người nói và người nghe
Chúng em, chúng tôi: không bao gồm người nghe
Câu 2: Trong các văn bản khoa học, nhiều khi tác giả của văn bản chỉ là một người nhưng vẫn xưng chúng tôi chứ không xưng tôi. Giải thích vì sao?
Trả lời: Lý do:
Muốn tăng tính khách quan của người viết
Thể hiện sự khiêm tốn của tác giả.
Câu 3: Đọc đoạn trích trong Thánh Gióng. Phân tích từ xưng hô mà cậu bé dùng để nói với mẹ mình và nói với sứ giả. Cách xưng hô như vậy nhằm thể hiện điều gì?
Trả lời:
Cậu bé gọi người sinh ra mình bằng “mẹ” ->bình thường
Cậu bé xưng hô với sứ giả “ông –ta” ->thể hiện thái độ tự tin khác thường, mang màu sắc của truyền thuyết.
Câu 4: Phân tích cách dùng từ xưng hô và thái độ của người nói trong câu chuyện… (SGK)
Trả lời:
Xưng hô và thái độ của người nói:
Vị tướng trong tư cách học trò cũ thăm trường, gặp lại thầy cũ, xưng “con” ->Thể hiện sự kính trọng.
Thầy giáo gọi vị tướng là “ngài” ->Thể hiện thái độ tôn trọng.
=> Cả hai người đều thể hiện cách đối nhân xử thế thấu tình đạt lí ->Phương châm xưng khiêm hô tôn.
Câu 5: Đọc đoạn trích từ Những năm tháng không thể nào quên (Võ Nguyên Giáp kể). Phân tích tác động của việc dùng từ xưng hô trong câu nói của Bác. (Chú ý so sánh: Trước năm 1945, người đứng đầu nhà nước có xưng hô với người dân của mình như vậy không?)
Trả lời:
Tôi – đồng bào: Tạo cho người nghe cảm giác gần gũi thân thiết, không có khoảng cách, đánh dầu bước ngoặt trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân =>Thể hiện quan hệ dân chủ trong chế độ mới.
Câu 6: Đọc đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chú ý những từ ngữ in đậm và trả lời câu hỏi. Các từ ngữ xưng hô trong đoạn trích trên được ai dùng và dùng với ai? Phân tích vị thế xã hội, thái độ, tính cách của từng nhân vật qua cách xưng hô của họ. Nhận xét sự thay dổi cách xưng hô của chị Dậu và giải thích lí do của sự thay đổi đó.
Trả lời:
Đoạn đầu, cách xưng hô ở lời nói của cai lệ nói với anh Dậu, chị Dậu: thằng kia, ông, mày, chị… thể hiện rõ sự cách biệt về địa vị và hoàn cảnh giữa các nhân vật.
Chị Dậu, người dân thấp cổ bé họng, lại đang thiếu sưu nên phải hạ mình, nhịn nhục: xưng hô cháu, nhà cháu – ông;
Cai lệ, người nhà lí trưởng trái lại cậy quyền, cậy thế nên hống hách, thể hiện sự hống hách, trich thượng.: xưng hô ông – thằng kia, mày.
Sang đoạn sau, cách xưng hô thay đổi. Chị Dậu chuyển sang tôi – ông rồi sang bà – mày. Đó là hành vi thể hiện sự “tức nước – vỡ bờ”, sự tự vệ cần thiết để bảo vệ chồng của chị.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.