“Rằm tháng giêng” cho thấy sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, và tâm hồn thi sĩ hòa quyện với tâm hồn của người chiến sĩ. Bài thơ là … xem thêm…sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại. Mời các bạn tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 1
Bài thơ “Nguyên tiêu” (Rằm tháng giêng) là một trong những bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ đã khắc họa được khung cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong đêm trăng cũng như qua đó bày tỏ tấm lòng yêu nước sâu nặng của Người:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Có lẽ hình ảnh ánh trăng không còn xa lạ gì trong thơ ca. Ta đã từng bắt gặp ánh trăng nhớ trong thơ Lý Bạch:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương)
Ánh trăng trong thơ Lý Bạch dường như mang nỗi nhớ về quê hương. Còn trong “Rằm tháng giêng” của Hồ Chí Minh, ánh trăng lại mang một ý nghĩa khác.
Nhà thơ đã xây dựng hình ảnh ánh trăng trong một đêm rằm tháng giêng với vẻ đẹp “nguyệt chính viên” – đó là lúc trăng ở vào độ tròn đầy và sáng nhất. Ánh trăng trong đêm rằm vốn đã đẹp nhưng ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng lại đẹp hơn cả. Không chỉ vậy, sắc xuân từ ánh trăng giống như đang bao trùm lên mọi cảnh vật khiến cho “sông xuân”, “nước xuân” và “trời cũng thêm xuân”. Từ “xuân” được điệp lại tới ba lần như muốn khẳng định sắc xuân đang lan tỏa khắp không gian. Không gian ấy mở rộng ra cả ba chiều: chiều cao, chiều rộng và chiều sâu làm cho cảnh vật thiên nhiên trở nên rộng lớn hơn chứ không bó hẹp. Sự nối tiếp giữa “sông xuân”, “nước xuân” và “trời xuân” cũng gợi ra vẻ đẹp giao hòa giữa bầu trời và mặt đất đều tràn ngập ánh trăng.
Trong bức tranh thiên nhiên đầy thơ mộng đó, người chiến sĩ cách mạng vẫn không quên đi một nhiệm vụ quan trọng. Những năm tháng chiến tranh, mọi công việc hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách âm thầm và kín đáo. Chính vì vậy, những người chiến sĩ cách mạng đã lựa chọn thời điểm trong đêm khuya để bàn bạc việc quân việc nước. Vì quá say sưa bàn luận mà họ dường như quên mất đi thời gian, để đến khi công việc đã xong xuôi mới nhận ra đêm đã khuya. Và ánh trăng lúc này cũng là sáng nhất. Hình ảnh “con thuyền” ẩn dụ cho sự thắng lợi của cách mạng. Con thuyền chứa đầy ánh trăng giống như thắng lợi của cách mạng không còn xa nữa. Đó chính là niềm tin của Bác Hồ vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã khắc họa được bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng đầy thơ mộng cùng tình yêu nước sâu sắc của Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, người đọc cũng thấy được một tâm hồn thi sĩ đầy tinh tế nhạy cảm của Bác Hồ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 2
Bài thơ “Rằm tháng giêng” được Bác Hồ viết trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ không chỉ miêu tả hình ảnh thiên nhiên ở chiến khu Việt Bắc trong đêm trăng mà còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Mở đầu bài thơ là hình ảnh ánh trăng trong đêm tại chiến khu Việt Bắc:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Đêm nay, đêm rằm tháng giêng, trăng đúng lúc tròn nhất)
Hình ảnh ánh trăng vào đêm rằm tháng giêng được nhà thơ miêu tả là “nguyệt chính viên” (trăng đúng lúc tròn nhất). Ánh trăng lúc này dường như bao phủ khắp núi rừng Việt Bắc khiến cho cảnh vật trở nên ấm áp hơn. Đến câu thơ tiếp theo, hình ảnh thiên nhiên lại càng đẹp hơn:
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
(Sông xuân, nước xuân tiếp giáp với trời xuân)
Ba từ “xuân” nối tiếp nhau thể hiện sức sống và sắc xuân đang trỗi dậy khắp mọi không gian. Từ “tiếp” gợi ra cho người đọc cảm nhận rằng dường như trời và đất đang giao hòa gặp gỡ nhau bởi sắc xuân rực rỡ. Như vậy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên trong đêm rằm tháng giêng tràn đầy sức sống. Đến hai câu thơ tiếp theo, hình ảnh con người đã xuất hiện với một công việc thật cao cả:
Yên ba thâm sứ đàm quân sự
(Nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng bàn việc quân)
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, mọi hoạt động cách mạng đều phải diễn ra một cách thầm lặng và kín đáo. Chính vì vậy, Bác Hồ cùng với các chiến sĩ mới lựa chọn thời điểm đêm khuya để bàn bạc việc quân, đó là những công việc quan trọng liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc. Và cuối cùng, bài thơ kết lại bằng một câu thơ:
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Nửa đêm quay về trăng đầy thuyền)
Phải chăng vì quá say sưa bàn bạc việc quân việc nước, mà khi trở về thì đêm đã về khuya? Lúc này ánh trăng cũng sáng rõ hơn bao giờ hết. Hình ảnh “nguyệt mãn thuyền” muốn thể hiện sức lan tỏa mạnh mẽ của ánh trăng trong đêm rằm tháng giêng. Qua đó, Bác Hồ muốn thể hiện khát vọng thành công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Với hai câu thơ sau, người đọc như thấy được một phong thái ung dung, lạc quan và lòng tin bất diệt của Người vào sự nghiệp giải phóng dân tộc nhất định sẽ thắng lợi.
“Rằm tháng giêng” là bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt mang đậm nét cổ điển. Thiên nhiên trong bài thơ được khắc họa bằng những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc trong thơ xưa như ánh trăng, sông nước, trời đất, con thuyền. Cùng với việc kết hợp biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả được bức tranh đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc thật sinh động.
Qua bài thơ trên, ta không chỉ thấy được một tâm hồn thi sĩ đa sầu đa cảm mà còn là con người kiên cường và trung thành với cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Người được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà hoạt động cách mạng, mà còn với vị trí của một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong số những tác phẩm Bác để lại, bài thơ “Rằm tháng giêng” là một tác phẩm nổi bật để lại trong lòng người đọc nhiều suy tư sâu sắc.
Năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Sau khi họp xong thì đêm cũng đã khuya. Hình ảnh ánh trăng sáng lan tỏa khắp không gian núi rừng rộng lớn. Cùng với sự giao hòa của cảnh vật và con người. Chính bức tranh đầy thơ mộng ấy khơi gợi cảm hứng để Bác sáng tác bài thơ này:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Câu thơ mở đầu gợi ra cho người đọc hình dung về một đêm rằm tháng giêng, ánh trăng đúng lúc tròn và sáng nhất. Ánh trăng dường như sáng đến độ có thể thắp sáng vạn vật. Để rồi cả “sông xuân”, “nước xuân”, “trời xuân” cũng lẫn màu ánh trăng. Từ “xuân” được điệp lại đến ba lần gợi ra một không gian thật rộng lớn. Từ “tiếp” gợi cho người đọc hình dung ra hình ảnh bầu trời và mặt đất dường như không còn khoảng cách để rồi như hòa hợp lại thành một. Trong thơ ca cổ, những hình ảnh “giang, thủy, nguyệt, thiên” vốn đã rất quen thuộc nhưng khi đi vào thơ Bác lại làm nổi bật nên một bức tranh đầy hiện đại mang vẻ tươi sáng, rực rỡ và tràn đầy sức sống của vạn vật.
Để rồi, đến khi con người xuất hiện thì bức tranh ấy lại càng tuyệt đẹp. Giữa màn sương khói mờ ảo, con người hiện ra trong công việc “đàm quân sự” – một công việc quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh nơi sông nước sương khói mờ ảo kia không phải là những người ẩn sĩ trong thơ ca xưa khi tìm về với chốn thiên nhiên để tránh khỏi những thị phi của cuộc đời giống như trong thơ của Cao Bá Quát:
“Thế sự thăng trầm quân mặc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu”
(Việc thế thăng trầm anh chớ hỏi
Mênh mông khói sóng chiếc thuyền câu)
Mà đó là hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng đang bàn bạc việc quân, việc nước. Khi khắc họa hình ảnh này, Bác đã làm nổi bật lên tâm hồn cao đẹp của những chiến sĩ cách mạng – họ là những con người yêu nước, thương dân, một lòng kiên trung với cách mạng. Công việc quan trọng của quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa dòng sông khói tỏa mịt mù cũng gợi lên một hình ảnh độc đáo lại nên thơ.
Chỉ đến khi công việc bàn bạc đã xong xuôi, người chiến sĩ mới giật mình nhận ra đêm đã quá khuya. Ánh trăng lúc này giống như đang lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng trên con thuyền của người chiến sĩ cách mạng khiến con thuyền để “bàn quân sự” giờ đây vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Hình ảnh dường như đã lay động tâm hồn nhà thơ. Khi công việc nước đã xong xuôi, Người mới có thời gian ngắm nhìn thiên nhiên bằng một trái tim say mê nhất. Cảnh tượng thiên nhiên khiến tâm hồn thi sĩ rung động, bồi hồi.
Như vậy, bài thơ “Rằm tháng giêng” đã bộc lộ được tình yêu thiên nhiên cũng như lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ. Đồng thời, qua đó Bác cũng gửi gắm một niềm tin chiến thắng cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 4
Nguyên tiêu là bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được viết trong thời gian kháng chiến chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc, Thu Đông 1947 sang Xuân Hè 1948 quân ta lại thắng lớn trên đường số 4. Niềm vui thắng lợi tràn ngập tiền tuyến, hậu phương. Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy bài thơ Nguyên tiêu của Bác Hồ xuất hiện trên báo Cứu quốc như một đoá hoa xuân ngọt ngào rực rỡ sắc hương.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thuỷ tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời vầng trăng tròn vành vạnh:
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì có hơi thở của mùa xuân. Đêm rằm, trăng sáng ánh trăng lồng lộng dát vàng trên nền trời, phủ khắp chốn trần gian, ánh trăng tràn mọi nẻo… Ánh trăng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình lung linh sinh sắc. Đất nước, quê hương bao la một màu xanh bát ngát, màu xanh lấp lánh của xuân giang, dòng sông như được tiếp thêm sức sống mới dưới khí trời mát dịu. Dòng sông trở nên đẹp hơn, hữu tình hơn, dòng sông xanh xuân thủy và tiếp nối với màu xanh của xuân thiên.
Mùa xuân là mùa của chồi non, sự sống. Xuân phơi phới có ở khắp mọi nơi, xuân của dòng sông, dòng nước, không gian cao rộng của bầu trời. Khí xuân tràn ngập sự sống, ba từ xuân làm nổi bật cái thần của cảnh vật, sông nước và bầu trời:
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Xuân trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ và vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất trời vào xuân. Khi vào xuân, con người tạo vật như bừng tỉnh, rạo rực trong cuộc sống mới. Nhà thơ Thanh Hải đã từng cảm nhận mùa xuân của thiên nhiên và đất trời qua những tín hiệu đặc sắc:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng…
(Mùa xuân nho nhỏ)
Xuân đến, tiếng chim hót vang lừng, giọt mùa xuân long lanh do đất trời ban tặng làm cho sự sống rạo rực hơn và bất tận. Trong câu thơ của Bác xuân còn gợi tả màu xanh của sông nước, trời đất vào xuân, sức sống mãnh liệt, trẻ trung căng tràn nhựa sống. Niềm vui sướng tự hào phơi phới của Bác đang ngây ngất say sưa giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử – đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác, yêu trăng, yêu xuân chính là yêu cuộc đời. Trái tim mênh mông của người chan hoà với thiên nhiên, sông núi, hoa lá cỏ cây thật hữu tình. Có trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa, trăng vào cửa sổ đòi thơ trong niềm vui thắng trận. Và xem sách chim rừng vào cửa đậu – phê văn hoa núi ghé nghiêng soi. Thiên nhiên trong thơ Bác thật phong phú và chan chứa chất thơ. Đến hai câu thơ cuối, ta thấy cảm nhận về dòng sông, về khói sóng, và con thuyền được nâng lên một mức:
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Nhớ ánh trăng ngày nào khi Bác còn bị giam dưới ngục lạnh nơi đất khách quê người (1942-1943) thì đêm nay – đêm rằm tháng giêng (1948) lại bắt gặp ánh trăng nơi chiến khu Việt Bắc. Con thuyền xuôi mái giữa dòng sông trăng, tựa mạn thuyền người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh đang đàm quân sự. Ánh trăng đêm này là ánh trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm được nhân dân đón đợi với bao tình cảm nồng hậu. Trăng đêm nay không phải là ánh trăng bình thường trước sân nhà, đầu ngõ.
Bác thưởng trăng trên khói sóng, người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các bậc tao nhân mặc khách ngày xưa mà còn là con người hành động, người chiến sĩ cộng sản đánh giặc. Vị lãnh tụ đang bàn bạc việc quân trên con thuyền nhẹ lướt giữa sông nước trời xuân đây là trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt, yên ba là khói sóng, thi liệu cổ của Đường thi.
Vậy là câu thơ có nét cổ điển và có nét hiện đại, chất hiện đại đó chính chất thép, chất chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản: Nay ở trong thơ nên có thép – Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Sau quãng thời gian bàn bạc việc quân, đêm đã về khuya, nửa đêm (dạ bán). Con thuyền kháng chiến trở thành con thuyền trăng trên vời sông nước mênh mông:
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Hình ảnh nguyệt mãn thuyền gợi cho chúng ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…
(Bạch Cư Dị)
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Nguyên tiêu ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ ẩn hiện sau màn sương khói. Trên chiếc thuyền hình ảnh thi sĩ – chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ với bàn bạc việc quân trong đêm trăng, tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, quyết chiến đấu giành lại độc lập tự do cho dân tộc.
Nguyên tiêu là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, mang phong vị Đường thi. Bài thơ có nét thơ cổ thể: con thuyền, trăng, sóng, xuân, nước xuân, trời xuân, khói sóng… điệu thơ thanh nhẹ. Trong khung cảnh ấy chất chiến sĩ là trung tâm. Bài thơ như một đoá hoa xuân, tinh hoa kết tụ tâm hồn trí tuệ, đạo đức Hồ Chí Minh.
Văn là người, thơ là tấm lòng. Bài thơ này thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, đồng thời bộc lộ tình yêu nước sâu sắc. Cốt cách thi sĩ hoà quyện chất chiến sĩ chất chứa đầy ắp trên chiếc thuyền kháng chiến đang tiến nhanh về bến bờ độc lập tự do.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 5
Rằm tháng giêng là bài thơ nổi tiếng của Bác, được viết vào đúng rằm tháng giêng năm 1948 ở chiến khu Việt Bắc. Bài thơ đã cho thấy sự tinh tế của Bác trong cách cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên, và tâm hồn thi sĩ hòa quyện với tâm hồn của người chiến sĩ.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Ta có thể hình dung khung cảnh bầu trời cao rộng trong trẻo, nổi bật là nền trời ấy là ánh trăng tỏa rạng, sáng ngời. Bức tranh của Bác gợi nhiều hơn tả, khung cảnh được vẽ rộng mênh mông, với vài nét phác họa đơn sơ, Người chú ý đến toàn cảnh mà ít đi vào miêu tả chi tiết, cụ thể, đây cũng là cách miêu tả phổ biến trong thơ ca cổ điển.
Cả dòng thơ thứ hai tràn ngập sức sống mùa xuân, câu thơ mở rộng ở cả hai chiều, chiều rộng xuân giang, chiều cao xuân thiên, khiến cho khung cảnh càng trở nên rộng rãi, khoáng đạt hơn. Đồng thời sử dụng liên tiếp ba chữ xuân cũng cho thấy sức sống mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi. Bác như một tao nhân mặc khách, ung dung thưởng tức không khí xuân nhẹ nhàng, yên bình.
Nhưng thật bất ngờ, trong bầu không khí ấy lại đang diễn ra cuộc họp bàn việc quân sự, bàn việc đất nước: Yên ba thâm xứ đàm quân sự. Đối chiếu với nguyên tác ta có thể thấy phần dịch thơ đã không dịch hai chữ “yên ba” có nghĩa là khói sóng. Lược bỏ đi đã làm mất đi cái hư thực, huyền bí của không gian đêm khuya. Ba chữ “đàm quân sự” rất hiện đại và mang âm hưởng của thời đại.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước đang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ta càng thấy rõ hơn sự bình tĩnh, chủ động, lạc quan của vị lãnh tụ. Mặc dù vẫn ngày đêm lo nghĩ cho việc nước, nhưng Bác vẫn dành ra chút thời gian ít ỏi để rung cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên. Phong thái ung dung còn được thể hiện trong câu thơ cuối: Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền. Con thuyền của Bác sau khi bàn việc quân tràn ngập ánh trăng, lướt đi phơi phới như đang chở một thuyền trăng trở về.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách hiện đại. Những thi liệu cổ như con thuyền, vầng trăng,… đã biến Bác thành một thi nhân hòa mình vào thiên nhiên. Không gian núi rừng để đàm đạo quân sự lại đầy chất hiện đại. Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, lời ít ý nhiều , tạo sức gợi cho ngôn từ và hình ảnh.
Bài thơ với ngôn ngữ cô đọng, chắt lọc tinh tế đã cho ta thấy Bác ở những chiều kích khác nhau. Đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, rung cảm trước vẻ đẹp của vạn vật khi xuân sang. Không chỉ vậy, đó còn là tâm hồn của một chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước, nhưng hơn hết vẫn thể hiện được phong thái ung dung, lạc quan trong cuộc đời kháng chiến đầy gian khổ.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 6
“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên Tiêu”,… Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, sang xuân hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số Bốn. Niềm vui thắng trận tràn ngập tiền tuyến hậu phương.
Trong không khí sôi động và phấn chấn ấy, bài thơ của Bác Hồ xuất hiện trên báo “Cứu quốc” như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân Thủy đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dịch giả đã chuyển thành thơ lục bát:
“Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên cảm xúc và niềm tin dào dạt trong tâm hồn lãnh tụ đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu Trời, vầng trăng vừa tròn (nguyệt chính viên).Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”, màu xanh ngọc bích của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thiên thanh của “xuân thiên”. Ba từ “xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần” của cảnh vật sông, nước và bầu Trời:
“Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên”
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm “Xuân”)
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp xinh tươi. Nó còn gợi tả màu xanh của sông nước, đất Trời vào xuân. Nó thể hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dào dạt một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc: “Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hóa núi ghé nghiêng soi”, yêu ngọn gió, giọt mưa báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc trữ tình và màu sắc cổ điển. Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
“Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào nhà ngục lạnh nơi đất khách quê người, thì đêm nguyên tiêu này (1948), trăng lại soi xuống con thuyền trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón đợi với bao hi vọng, bao tình cảm nồng hậu.
Lại nữa, trường hợp thưởng trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm, hay “đăng lâu vọng nguyệt”… mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu bao la!. Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc quân” để lãnh đạo nhân dân kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói sóng, một thi liệu cổ được Bác Hồ vận dụng rất sáng tạo làm cho bài thơ “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ “Đàm quân sự” đã khu biệt thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho văn thơ mang màu sắc hiện đại và không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, Trời đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô cùng. Con thuyền trở thành con thuyền trăng, nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh trăng vàng:
“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình nó làm ta nhớ đến những vần thơ cổ thi hoa lệ:
– “Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?”
Trăng nước như xưa chín với mười”
(Triệu Hổ – Đường thi)
– “Thuyền mấy lá đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”
(Bạch Cư Dị)
– “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”
(Nguyễn Trãi)
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy Trời quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy tâm hồn Bác Hồ rất yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.
Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp. Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương Đông.
“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của một bài thơ cổ: một con thuyền, một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, Trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ không có rượu và hoa để thường trăng, không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”.
Bài thơ như một đóa hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh. Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt..” nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước, thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm tháng giêng, hướng tới bầu Trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái ung dung.
Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết sống đẹp. “Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt bút của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới chiến công và niềm vui thắng trận.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 7
Bài thơ “Nguyên tiêu” là một bài thơ được tác giả Hồ Chí Minh viết bằng chữ Hán trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp gian khổ, khi tác giả còn đang đóng quân tại chiến khu Việt Bắc. Sau chiến thắng Việt Bắc 1947 của Đảng và nhân dân ta. Tác giả xúc động viết bài thơ này để bày tỏ niềm vui của mình trước mùa xuân mới của quê hương đất nước.
Trong một không khí sôi động, vui mừng vì thắng lợi lớn của dân tộc. Bác Hồ đã viết những lời thơ vô cùng hào khí. Bài thơ lần đầu tiên xuất hiện trên tờ báo Cứu quốc của nước ta.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Mở đầu bài thơ là cảnh tuyệt vời trong đêm trăng rằm tháng giêng. Trên bầu trời trăng sáng tròn vành vạnh, khiến cho tâm hồn của tác giả bâng khuâng xúc động.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Trăng trong đêm rằm tháng giêng mang vẻ đẹp kiêu sa xinh tươi khác thường vì trong ánh trăng có chứa hơi thở của mùa xuân nồng nàn, với sức sống mãnh liệt. Đêm trăng gió mát trăng thanh, giữa chốn dương gian, ánh trăng vằng vặc soi sáng mọi nẻo đường…Ánh trăng làm cho cảnh núi non thiên nhiên giữa rừng lung linh huyền ảo.
Quê hương đất nước, bao la với màu xanh bát ngát, màu xanh bao phủ dòng sông, dòng sông như được tiếp truyền thêm rất nhiều sức sống mới của không khí mùa xuân mát dịu. Mùa xuân phơi phới, lan tỏa hơi xuân sang khắp nơi. Khiến cho con người và cảnh vật trở nên hữu tình.
Dòng sông trở nên hữu tình, sinh động hơn, màu xuân xanh, xuân thủy thể hiện vẻ đẹp hữu tình của cảnh vật và thiên nhiên. Trong điệp từ xuân thể hiện sự sống mãnh liệt của con người và thiên nhiên cảnh vật.
Mùa xuân mọi cảnh vật đâm chồi nảy lộc, sự sống mạnh mẽ. Xuân đang thể hiện sức sống khắp nơi, trên mảnh đất quê hương, không gian bao la thể hiện sự mênh mang của thời gian nổi bật lên thần thái của cảnh sắc hữu tình.
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
Xuân tới tiếng chim càng hót líu lo, rộn vang muôn nơi, thể hiện sự sinh sôi nảy nở, ban tặng cho con người và cảnh vật thiên nhiên bất tận. Trong cảnh vật thiên nhiên làm cho con người cảm thấy mê say, đắm chìm trong sự bao la, bất tận. rong bài thơ của Hồ Chí Minh còn gợi tả những hình ảnh sông nước, đất trời đang thời kỳ vào xuân, sức sống trẻ trung, tràn đầy nhựa sống. Niềm vui hiện lên sức sống mùa xuân ngập tràn khiến con người say đắm.
Ánh trăng và mùa xuân là nguồn cảm hứng xuất hiện nhiều lần trong những bài thơ của Bác. Thể hiện trái tim mênh mông thiên nhiên, sông núi, cỏ cây thật hữu tình. Thể hiện sự mênh mông bao la của vũ trụ thiên nhiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Ánh trăng với tác giả như hai người bạn thủy chung gắn bó với nhau trong rất nhiều chiến dịch, nhiều sự kiện. Hình ảnh ánh trăng xuất hiện trong nhiều bài thơ của tác giả. Trong mỗi lần xuất hiện vầng trăng lại thể hiện một hình ảnh tâm thế mới. Trong ánh trăng hôm nay đang bàn bạc việc quân việc nước, ánh trăng thể soi sáng trên sông lướt nhẹ giữa dòng sông êm ả, thể hiện sự hữu tình của bài thơ.
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)
Con thuyền lướt nhẹ nhàng thư thái trên dòng sông sương khói phủ mờ, thể hiện như hư ảo của không gian thời gian và cảnh vật thiên nhiên. Tác giả đã vẽ lên một bức tranh hữu tình thể hình sự thi sĩ, một chiến sĩ sau khi bàn bạc việc quân việc nước đã trở về trên dòng sông thơ mộng với tâm trạng thư thái, hy vọng về tương lai tươi đẹp, độc lập tự do.
Bài thơ “Nguyên tiêu” được tác giả làm theo thể thơ tứ tuyệt mang dư vị phong cách, thần thái của thơ Đường. Bài thơ có những nét cổ điển với những nguồn cảm hứng bất tận như ánh trăng, dòng sông, con thuyền. Vẫn thơ nhẹ nhàng thể hiện tâm trạng thanh tịnh, của tác giả sau khi bàn bạc việc dân việc nước trở về nơi cư ẩn.
Qua bài thơ tác giả Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, bộc lộ tình yêu của mình với dân tộc một cách sâu đậm. Thông qua bài thơ cốt cách thi sĩ của tác giả thể hiện vô cùng mạnh mẽ. Một cốt cách của một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà lãnh đạo chính trị đại tài.
Bài văn phân tích tác phẩm “Rằm tháng giêng” số 8
Có lẽ trăng là đối tượng muôn đời của thi sĩ. Ánh sáng lung linh, huyền diệu thanh thoát và dịu hiền của trăng rất dễ gợi cảm hứng cho thi nhân. Trăng đã từng bàng bạc tỏa sáng những trang thơ trong đôi mắt “biếc rờn” dạt dào say đắm của thi sĩ. Là một nhà thơ yêu thiên nhiên tha thiết, Bác cũng không nằm ngoài qui luật cảm hứng chung ấy của nhân loại.
Bác yêu trăng, nâng niu thứ ánh sáng thanh khiết của trăng nên mỗi khi thưởng trăng, Bác thường gửi gắm vào người, bạn tri âm ấy những cảm xúc dạt dào và say đắm của tâm hồn. Hoài Thanh đã từng nhận xét: “Thiên nhiên trong thơ Bác thường chan chứa một niềm vui lớn”. Bài thơ viết về trăng nổi tiếng của Bác – bài “Nguyên tiêu” cũng “chan chứa niềm vui lớn” mà Bác trân trọng gửi gắm với tất cả thương yêu.
Ở con người Bác – một con người giản dị, nhưng vẫn luôn luôn tỏa sáng một nhân cách lớn lao, vĩ đại. Bác sống vì lý tưởng cao cả, buồn với nỗi đau lớn, vui với niềm vui lớn nên Bác mang cả “niềm vui lớn” ấy vào trong thơ. Chính vì thế thiên nhiên – “người tình muôn đời của thi sĩ” trong thơ Bác thường được Bác yêu thương gửi gắm nỗi niềm. Và nhất là nói với Bác, trăng vẫn là một người bạn tri âm chia sẻ vui buồn, trăng vốn chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp thơ ca Hồ Chí Minh. Trăng cũng thường mang trong mình những nỗi niềm tha thiết, mãnh liệt mà sâu lắng của Người. Bài thơ “Nguyên tiêu” tuyệt đẹp cũng nằm trong nguồn mạch ấy.
Bài thơ chữ Hán nhỏ xinh ấy đã ra đời trong 9 năm kháng chiến Chống Pháp tại chiến khu Việt Bắc (cụ thể là bài thơ được sáng tác vào mùa xuân năm 1948). Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông 1947, quân dân ta liên tiếp thu được những chiến thắng rực rỡ. Niềm vui thắng trận đã mang đến một niềm phấn khởi, một niềm tin mãnh liệt cho những con người kháng chiến. Trong không khí sôi động phấn chấn ấy, hồn thơ của Bác đã cất cánh, “Nguyên tiêu” đã ra đời như một đóa hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Vì thế, bức tranh thiên nhiên trong bài thơ mang vẻ đẹp tươi tắn, thể hiện sâu sắc niềm vui dào dạt của tâm hồn Bác trong đêm nguyên tiêu lịch sử. Mở đầu bài thơ là một lời thông báo, một lời nhận xét mang tính hiện thực cao độ:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên”
(Rằm xuân lồng lộng trăng soi)
Rằm tháng giêng, trăng đang vào độ tràn đầy, viên mãn nhất. Trăng ở trên đỉnh bầu trời tỏa xuống thế gian một thứ ánh sáng mênh mang, huyền diệu. Có người đã so sánh vầng trăng trong “Rằm tháng giêng” với vầng trăng trong “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế:
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên”
Một tiếng quạ kêu vang lên thê thiết giữa đêm khuya, một vầng trăng tàn, trăng úa đã gợi dậy cả một nổi buồn mênh mang, sầu não. Cũng là vầng trăng thiên nhiên ấy nhưng vầng trăng trong “Nguyên tiêu” lại là vầng trăng rực rỡ sắc xuân, tràn đầy “sung mãn”.
“Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”
Không gian bức tranh mở ra mênh mông bát ngát – một không gian ba chiều tràn đầy sức sống mùa xuân. Câu thơ chính đã đánh rơi mất một chữ xuân trong nguyên tác “Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên”: sông mùa xuân, nước mùa xuân, tiếp với bầu trời mùa xuân. Ba chữ “xuân” tiếp ứng trong câu thơ như tạc như in cái xuân sắc của đất trời vào hồn người đọc. “Xuân giang”, “xuân thủy” hòa với “xuân thiên” tạo nên một mùa xuân bất tận, sức sống bừng lên toàn vũ trụ mênh mông. Giữa sông nước và bầu trời không còn giới hạn mà như hòa quyện vào nhau, chan chứa ánh sáng lấp lánh, vừa tươi đẹp vừa hư ảo như ở chốn bồng lai tiên cảnh. Độ dài rộng của sông nước, độ cao bát ngát của trời xuân như mở rộng ra mãi trong lòng người.
Động từ “tiếp” dựng dậy độ cao của bức tranh khoáng đạt, càng tạo ấn tượng về không gian vũ trụ bao la, hùng vĩ. Điệp từ “xuân” như những nốt nhấn, trong trẻo khiến sức sống bùng lên tỏa lan đất trời. Đêm trăng huyền diệu tràn ngập sức xuân tươi mới ấy tưởng như ở chốn bồng lai, nhưng thật ra đó là vẻ đẹp trần thế ngay giữa cuộc đời, nơi sông nước Việt Bắc – căn cứ địa cuộc kháng chiến chông Pháp thần thánh của dân tộc ta. Tưởng như thi nhân đang mở rộng cõi lòng để thu lấy sắc xuân của tạo vật, của đất trời trong cái nhìn hân hoan, giao cảm lạc quan với thiên nhiên.
Đằng sau bức tranh xuân lộng lẫy ánh sáng, lộng lẫy vẻ đẹp sắc màu của cảnh vật hữu tình chan chứa một điệu xanh bát ngát: xanh lấp lánh “xuân giang”, xanh ngọc bích “xuân thủy”, xanh thiên thanh của “xuân thiên” (Tạ Đức Hiền), là một tâm hồn trong trẻo, cao đẹp và tràn ngập “một niềm vui lớn”. “Xuân” là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ dẹp tươi xinh nhưng “xuân” còn là vẻ đẹp, là sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong chiến tranh gian khổ vẫn bừng lên một sức sống mạnh mẽ tiềm tàng, trẻ trung không thể dập tắt được.
Hai câu thơ đầu không chỉ mở ra một bức tranh xuân viên mãn với ánh trăng căng trào sức sống mà còn thể hiện tinh tế một niềm cảm xúc tự hào, một niềm vui sướng mênh mông của “một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến” (Tạ Đức Hiền). Vì thế, niềm vui cao cả lớn lao ấy của Bác như truyền vào cảnh khiến cảnh vật tươi mới, dạt dào sự sống hơn bao giờ hết.
Thơ Bác luôn vận động linh hoạt, con người luôn chủ động làm tâm điểm của bức tranh thiên nhiên. Hai câu thơ cuối đã hướng tới con người – chủ thể trữ tình với một niềm vui bát ngát:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”.
Một chiếc thuyền bồng bềnh giữa chốn khói sóng mịt mùng, giữa nơi núi rừng sâu thẳm. Cảnh tượng nên thơ, hư hư thực thực như ở chốn thần tiên huyền ảo. Người trên thuyền như một tao nhân mặc khách đang giăng thuyền thưởng trăng với “gió trăng chứa một thuyền đầy” (Nguyễn Công Trứ). Cảnh ấy, người ấy tự lâu dã làm rung động biết bao hồn thơ. Nhưng thật bất ngờ, những người khách ở trên thuyền không phải “đàm tâm sự”, cũng không “đàm thế sự” mà là “đàm quân sự” – một công việc có liên quan đến sự sống còn của đất nước đến vận mệnh của dân tộc. Trên con thuyền bồng bềnh nơi sông nước kia không phải là những người ẩn sĩ, thoát tục xa lánh cuộc đời thường xuất hiện trong thơ ca:
“Thế sự thăng trầm quân mặc vấn
Yên ba thâm xử hữu ngư châu”
(Việc thế thăng trầm anh chớ hỏi
Mênh mông khói sóng chiếc thuyền câu)
(Cao Bá Quát)
hay ở câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu:
“Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
“Yên ba thâm xứ” một thi liệu cổ được Bác vận dụng sáng tạo khiến câu thơ phảng phất hương vị Đường thi. Nhưng ba chữ “đàm quân sự” lại khiến vần thơ mang màu sắc, mang không khí của lịch sử, thời đại vẻ đẹp hòa quyện giữa chất cổ điển và chất hiện đại đã tạo cho bức tranh vừa huyền ảo một lớp sương khói vấn vương vừa tái hiện sâu sắc một công việc,trọng đại của bàn chỉ huy cuộc kháng chiến thần thánh nơi căn cứ địa Việt Bắc. Con người ở đây không là ẩn sĩ lánh đời mà là những chiến sĩ bàn bạc việc đời, việc đất nước, nhân dân.
Bác đã thay đổi hồn cốt của câu thơ, làm nổi bật lên tâm hồn chiến sĩ cao đẹp: đặt việc nước việc quân lên trên hết. Công việc trọng đại có liên quan đến vận mệnh quốc gia lại được bàn bạc trên con thuyền giữa chốn khói sóng mịt mùng vừa rất nên thơ lại vừa rất độc đáo. Cảnh đẹp đầy sức quyến rũ nhưng con người không đắm chìm vào thiên nhiên, không tìm đến thiên nhiên để thoát tục tìm sự nghỉ ngơi trong tâm hồn mà con người vẫn trĩu nặng chất đời. Chỉ đến khi công việc bàn bạc quân sự đã hoàn thành, tâm hồn chiến sĩ mới dành chỗ cho tâm hồn thi sĩ phơi phới bốc men say:
“Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Nửa đêm, khi việc nước đã bàn xong, phương lược kháng chiến đã định, tâm hồn con người đã vơi đi lo âu thế sự thì thiên nhiên đã trở về tràn ngập tâm hồn thi nhân với vẻ đẹp đắm say hơn bao giờ hết. Trăng lùa vào thuyền, vào hồn nhà thơ vấn vít. Trăng dâng đầy lai láng con thuyền khiến con thuyền để “bàn quân sự” vụt biến thành con thuyền thơ đầy ảo mộng. Một hình ảnh thơ tuyệt đẹp đã bay đến hồn thi nhân. Khi công việc đã hoàn thành, tâm hồn Bác mở rộng đón thứ ánh sáng cao khiết của ánh trăng, no nê, thưởng ngoạn chất xuân sung mãn. Vì thế, thiên nhiên trong bài thơ như hân hoan, trong niềm sảng khoái trong niềm vui thanh thản của người lãnh tụ đã tìm được phương lược kháng chiến để cứu nước. Câu thơ phảng phất hương vị Đường thi như trong câu thơ của Trương Kế:
“Cổ Tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
(Phong kiều dạ bạc)
Nếu câu thơ của Trương Kế ghi lại thời điểm đêm khuya tĩnh vắng, tâm trạng cô quạnh đơn chiếc của người lữ thứ thì trong “Nguyên tiêu”, cũng là nửa đêm nhưng cảnh không tĩnh vắng mà ấm nóng hoạt động của con người, mà sáng bừng ánh sắc của trăng rằm rực rỡ. Trong thơ Bác, trăng là thiên nhiên tươi đẹp, thanh xuân; trăng là người bạn tri âm tri kỉ và trăng cũng là biểu tượng cao đẹp, sáng láng của tự do. Ta đã từng bắt gặp tâm hồn người tù Hồ Chí Minh phá tan song sắt nhà lao Tưởng Giới Thạch để bay lên giữa bát ngát ánh trăng;
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
thì giờ đây, giữa Việt Bắc “thủ đô gió ngàn”, tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát tự do ấy càng bừng lên mãnh liệt. Trăng chính là hình ảnh tự do. Không còn tầm tôi một, cánh cửa nhà tù, chỉ có con người và ánh trăng làm trung tâm bức tranh phong cảnh. Niềm vui chan chưa trong hình ảnh thiên nhiên tự do, khoáng đạt gieo vào hồn người một cảm xúc trong trẻo đầy chất thơ.
Thơ Bác thường vận động hướng tới ánh sáng như niềm tin mãnh liệt của Bác vào tương lai huy hoàng tươi sáng của ngày mai. Bài thơ kết thúc trong dòng suối trăng lấp lánh rực rỡ, kết trong hình ảnh một con thuyền trăng chan hòa. “Ý tại ngôn ngoại”, lời thơ đóng lại nhưng ý thơ mở ra mênh mang, niềm vui như tỏa lan vương vấn mãi trong hồn người đọc. Niềm vui có được sau khi việc quân việc nước đã bàn xong, niềm vui có được khi thi nhân say đắm ngắm trăng vàng và tin vào tương lai tươi sáng. Niềm vui ấy củng cố cho con người niềm tin vào sự thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến vĩ đại. Câu thơ tràn đầy niềm lạc quan cách mạng của nhà thơ – vị lãnh tụ tài ba.
Và vì thế con thuyền bát ngát trăng cũng như bát ngát niềm vui cao đẹp tin tưởng vào bình minh sáng rực của dân tộc. Chất lãng mạn cách mạng vút lên từ hiện thực kháng chiến, lâng lâng một niềm vui sảng khoái. Người chiến sĩ vụt biến thành thi sĩ, dể rồi say sưa trước xuân viên mãn, nhưng vẫn hết lòng với cuộc kháng chiến giành độc lập tự do, giữ mãi đêm trăng rằm mộng mị trên quê hương yên bình. Con thuyền quân sự – con thuyền trăng – con thuyền kháng chiến lướt trên dòng sông trong nguồn sáng rực rỡ là dự báo cuộc kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi, con thuyền cách mạng sẽ cập bến vinh quang.
“Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng đẹp. Bài thơ man mác phong vị Đường thi nhưng cảnh không buồn rầu như trong thơ cổ mà phơi phới một niềm vui lớn của một tâm hồn cao cả. Sức xưa như tràn ra trong hình ảnh thơ, ánh trăng như lai láng lan cả vào hồn bạn đọc đã thế hiện một tình yêu thiên nhiên tha thiết của một tâm hồn, dù trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc quan tin tưởng vào ngày mai. Cảnh vật trong bài thơ thanh nhẹ nhưng lấp lánh niềm vui lớn. Dù thiên nhiên có phảng phất phong vị cổ điển vẫn phơi phới một niềm vui hiện đại, vẫn trĩu nặng chất đời.
Trăng trong thơ Bác và trăng của hàng nghìn năm trước vẫn là vầng trăng ấy. Nhưng trăng xưa là trăng buồn, trăng úa, thì trăng trong “Rằm tháng giêng” lại là vầng trăng vui dạt dào sức sống. Vậy thì sự buồn vui đâu phải tự vầng trăng mà nỗi niềm ấy xuất phát tự lòng người. Trăng vui trăng đẹp, trăng trong trăng sáng thanh cao ấy là vì lòng người cũng vui, cũng đẹp, cũng trong sáng như trăng. Qua trăng trong bài thơ Bác, trăng trong “Nguyên tiêu” ta hiểu được vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo cao đẹp của Bác chính là vì vậy.
“Thơ là tiếng nói của trái tim đến mỗi trái tim”. Niềm vui lớn trong thơ Bác đã tìm được sự đồng diệu trong lòng bao thế hệ. Qua thiên nhiên trong thơ Bác nói chung và thiên nhiên trong “Nguyên tiêu” nói riêng ta hiểu được nhân cách cao cả của người. Cuộc đời cứ trôi đi, nhưng tác phẩm nghệ thuật đích thực, những tâm hồn cao đẹp càng ngời sáng lấp lánh với muôn đời như “cây đời mãi mãi xanh tươi”. “Nguyên tiêu” với bức tranh thiên nhiên “chan chứa niềm vui lớn” sẽ mãi là một bông hoa xuân thắm sắc nhịp nhàng sự sống, nắng ấm tình đời như mới hôm qua.
Bài thơ với ngôn ngữ cô đọng, chắt lọc tinh tế đã cho ta thấy Bác ở những chiều kích khác nhau. Đó là một tâm hồn yêu thiên nhiên, rung cảm trước vẻ đẹp của vạn vật khi xuân sang. Không chỉ vậy, đó còn là tâm hồn của một chiến sĩ, luôn ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp cứu nước, nhưng hơn hết vẫn thể hiện được phong thái ung dung, lạc quan trong cuộc đời kháng chiến đầy gian khổ.