Ở lớp dưới, chúng ta đã được làm quen với văn nghị luận. Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ lớp 12 tiếp tục giúp các em học sinh nhanh chóng củng cố, nâng cao … xem thêm…những hiểu biết về thể loại văn này đồng thời có kĩ năng làm bài văn nghị luận về một bài thơ, một đoạn thơ tốt nhất. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để chuẩn bị tốt nội dung tiết học.
Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 1
I. Tìm hiểu đề và lập dàn ý
Tìm hiểu đề: xác định đề bài, yêu cầu nội dung, phương pháp, phạm vi tư liệu
Dàn ý
MB: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ được phân tích
TB:
– Hoàn cảnh sáng tác, phong cách sáng tác, nội dung chính, vị trí thơ…
– Bàn về giá trị nội dung, nghệ thuật
– Có thể phân tích từng khổ, từng dòng
– Phân tích hình tượng thơ, chỉ ra biện pháp nghệ thuật, phân tích nhịp điệu, cấu tứ
KB: Khẳng định, đánh giá chung về bài thơ
II. Luyện tập
Dàn ý:
MB: Giới thiệu về Huy Cận, bài thơ Tràng Giang và đoạn thơ phân tích
TB: Nêu hoàn cảnh sáng tác, cảm xúc bao trùm bài
– Nội dung bao quát cảnh và tình trong toàn bộ bài thơ
+ Hai câu thơ đầu: Cảnh thiên nhiên lúc chiều tà
+ Một nét vẽ mây núi hùng vĩ
+ Một cánh chim nhỏ tựa bóng chiều
– Thủ pháp tương phản: nỗi lòng cô đơn, nhỏ bé, chấp chới giữa dòng đời
+ Hai câu thơ thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê dâng ngập lòng người, nỗi khao khát tìm chỗ dựa cho tâm hồn
Nghệ thuật dùng từ láy âm “dờn dợn” lấy cái không có ngoại cảnh để nói cái có ở lòng người
Đánh giá nội dung và nghệ thuật đoạn thơ
+ Đoạn thơ nói lên nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình, cảm xúc hướng về quê hương
+ Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển ở hình thức ngôn ngữ, ở bút pháp tả cảnh ngụ tình
KB: Đánh giá chung về đoạn thơ
Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 2
Câu 1 (trang 85 SGK Ngữ văn 12 tập
1. Tìm hiểu đề và lập dàn ý
Lời giải chi tiết:
Đề 1: Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ trích trong bài Việt Bắc của Tố Hữu.
Tìm hiểu đề
Lập dàn ý
Đề 1
+ Hoàn cảnh ra đời bài thơ: trong những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Cuối năm 1947, quân Pháp ồ ạt tấn công lên Việt Bắc, hòng tiêu diệt lực lượng chủ yếu và cơ quan đầu não lãnh đạo cuộc kháng chiến. Chiến dịch Việt Bắc của quân và dân ta đã làm thất bại ý đồ của địch và tiêu diệt nhiều lực lượng của chúng. Bài thơ Cảnh khuya đã được Hồ Chí Minh viết trong những đêm sống tại núi rừng Việt Bắc để lãnh đạo chiến dịch.
+ Phân tích tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ trong hoàn cảnh lớn và hoàn cảnh nhỏ của bài thơ để thấy hết giá trị.
Mở bài: Giới thiệu khái quát hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
Thân bài:
+ Vẻ đẹp huyền ảo, lung linh của núi rừng đêm trăng (trăng, hoa, cây cổ thụ, tiếng suối).
+ Nhân vật trữ tình mải mê lo việc nước đến tận khuya, tình cờ bắt gặp tiếng suối dưới trăng (khác các ẩn sĩ tìm đến thiên nhiên để lánh đời, dưỡng tính).
+ Bài thơ hiện đại ở chỗ con người nổi bật giữa bức tranh thiên nhiên, cổ điển ở bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình.
Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp hài hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ và ý chí chiến sĩ trong bài thơ.
Đề 2
Khí thế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dũng mãnh, hào hùng (thể hiện qua lực lượng tham gia, những con đường và thời điểm tổng tiến công sôi nổi,…)
Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ (xuất xứ, trích dẫn nguyên văn đoạn thơ).
Thân bài:
+ Khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc: 8 câu đầu.
+ Khí thế chiến thắng của các chiến trường khác: 4 câu sau.
+ Nghệ thuật sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ tài tình của tác giả trong đoạn thơ.
Kết bài: Đoạn thơ thể hiện thành công cảm hứng ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
Câu 2 (trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Từ các đề bài và kết quả thảo luận, anh (chị) hãy cho biết đối tượng, nội dung của bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Lời giải chi tiết:
– Đối tượng của bài nghị luận rất đa dạng (bài thơ/đoạn thơ/hình tượng thơ…).
– Nội dung bài nghị luận bao gồm: giới thiệu khái quát về bài thơ/đoạn thơ, bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ/đoạn thơ, đánh giá chung về bài thơ/đoạn thơ.
Luyện tập
Câu hỏi (trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1)
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tràng giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Lời giải chi tiết:
1. Mở bài: Giới thiệu chung
Tràng giang được in trong tập Lửa thiêng (1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong sáng tác của Huy Cận. Tứ thơ Tràng giang được hình thành vào một buổi chiều mùa thu 1939, khi nhà thơ đứng bờ nam bến Chèm (Hà Nội), nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước bốn bề bao la thuần tuý tả cảnh thiên nhiên, mô tả cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đó là cái “thế giới bên trong”, cái linh hồn của tạo vật trong nỗi 1 xa vắng mênh mông. Khổ thơ kết cũng vừa là cảnh, vừa là tâm hồn.
2. Thân bài
Câu 1:
Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tác giả không viết về “núi cao”, “mây bạc”, mà viết “mây cao”, “núi bạc”. Đó là cách làm lộn dòng cảm giác khiến người đọc choáng ngợp…
Động từ “đùn” tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ.
Câu 2: Cánh chim chiều hôm mang theo nắng chiều sa xuống mặt sông. Hình ảnh cánh chim chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà và cái buồn cô liêu của người lữ khách (so sánh).
Câu 3: Lòng quê: nỗi nhớ quê hương gợi lên theo sóng nước.
Câu 4: Xuất xứ từ câu thơ của Thôi Hiệu đời Đường: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” (“Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” – Tản Đà dịch thơ). Tứ thơ mới mẻ, học tập thơ xưa và sáng tạo thêm cái mới.
=> Đoạn thơ nói lên được nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình. Cảm xúc hướng về quê hương cũng là một cách gửi gắm nỗi niềm yêu nước thầm kín của nhà thơ.
Nét đặc sắc nghệ thuật: Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển của thơ Đường với bút pháp lãng mạn của Thơ mới.
3. Kết bài
Tâm hồn nhà thơ đôn hậu, tinh tế. Đáng quý là cảnh vật và tâm trạng tác giả tuy buồn cô liêu nhưng rất đẹp, thể hiện tài năng và sự tinh tế trong cảm nhận thế giới tự nhiên và cuộc sống con người.
Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 3
Kiến thức cơ bản về nghị luận một bài thơ, đoạn thơ
1. Thế nào là nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ ?
Nghị luận về thơ (tác phẩm hoặc đoạn thơ) là quá trình sử dụng những thao tác làm văn để làm rõ tư tưởng, phong cách nghệ thuật của thơ đã tác động tới cảm xúc thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật và những liên tưởng sâu sắc của người viết.
2. Cách viết bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
a) Các thao tác cần thực hiện:
– Đọc kĩ đoạn thơ, bài thơ, nắm chắc mục đích, hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn thơ, bài thơ.
– Đoạn thơ, bài thơ có dấu hiệu gì đặc biệt về ngôn ngữ, hình ảnh?
– Đoạn thơ, bài thơ thể hiện phong cách nghệ thuật, tư tưởng tình cảm của tác giả như thế nào?
b) Cấu trúc bài làm
Bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ thông thường gồm 3 phần:
– Mở bài: Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
– Thân bài: Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
– Kết bài: Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.
=> Bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cũng có cấu trúc như các nghị luận khác. Nhưng trong phần thân bài, cần biết bám sát vào các yếu tố của thơ như: hình ảnh, cảm xúc, nhịp, vần,… để phân tích, từ đó phát hiện ra cảm xúc chủ đạo và sự độc đáo của nhà thơ trong cảm xúc, trong miêu tả.
Bài 1 trang 84 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Tìm hiểu đề và lập dàn ý cho 2 đề bài sau:
Đề 1
Phân tích bài thơ sau của Hồ Chí Minh
Tiếng suối trong như tiếng hát xa,Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
(1947)
Đề 2:
Phân tích đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Trả lời
Đề 1 :
a. Tìm hiểu đề:
– Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Địa điểm là vùng chiến khu Việt Bắc. Lúc này Chủ tịch Hồ Chí Minh đang trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ.
b. Lập dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu khái quát hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
– Thân bài:
Gợi ý:
+ Vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng trong một đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc.
+ Nổi bật lên giữa bức tranh thiên nhiên là người chiến sĩ “nặng nỗi nước nhà” (khác với hình ảnh ẩn sĩ và thiên nhiên trong thơ cổ).
+ Tính cổ điển và hiện đại trong phong cách thơ HCM.
* Cổ điển: Thể thơ Đường luật, hình ảnh thiên nhiên (trăng, suối, hoa…)
* Hiện đại: Nhân vật trữ tình lo “nỗi nước nhà”
– Kết bài:
+ Sự hài hòa về tâm hồn nghệ sĩ và ý chí chiến sỹ trong bài thơ.
+ Đánh giá chung: Khái quát về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Đề 2 :
a. Tìm hiểu đề:
– Nhớ lại quang cảnh chiến đấu sục sôi, hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc với nhiều lực lượng tham gia.
– Nhớ lại niềm vui khi tin tức chiến thắng của mọi miền đất nước tiếp nối báo về. (4 câu cuối).
b. Lập dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ.
– Thân bài:
+ Triển khai các ý trong phần tìm hiểu đề.
+ Nghệ thuật điêu luyện trong việc sử dụng thể thơ lục bát:
* Cách dùng từ ngữ, hình ảnh.
* Cách vận dụng các biện pháp tu từ (so sánh, cường điệu).
* Giọng thơ hào hùng, sôi nổi.
– Kết bài:
Đoạn thơ thể hiện thành công cảm hứng ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.Soạn văn Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ lớp 12.
Bài 2 trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Từ các đề bài và kết quả thảo luận, anh (chị) hãy cho biết đối tượng, nội dung của bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Trả lời
– Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ, …). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ, … của bài thơ, đoạn thơ đó.
– Bài viết thường có các nội dung sau:
+ Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
+ Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
+ Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.
Bài luyện tập trang 86 SGK Ngữ văn 12 tập 1
Câu hỏi: Hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Trường Giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Gợi ý:
Các em có thể dựa vào mẫu dàn ý chi tiết sau đây để triển khai bài nghị luận:
1. Mở bài: Giới thiệu chung
Tràng giang được in trong tập Lửa thiêng (1940) là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất trong sáng tác của Huy Cận. Tứ thơ Tràng giang được hình thành vào một buổi chiều mùa thu 1939, khi nhà thơ đứng bên bờ nam bến Chèm (Hà Nội), nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước bốn bề bao la thuần tuý tả cảnh thiên nhiên, mô tả cái vô hình, cái vĩnh viễn. Đó là cái “thế giới bên trong”, cái linh hồn của tạo vật trong nỗi xa vắng mênh mông. Khổ thơ kết cũng vừa là cảnh, vừa là tâm hồn.
2. Thân bài
– Câu thơ 1:
+ Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tác giả không viết về “núi cao”, “mây bạc”, mà viết “mây cao”, “núi bạc”. Đó là cách làm lộn dòng cảm giác khiến người đọc choáng ngợp…
+ Động từ “đùn” tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ.
– Câu thơ 2:
+ Cánh chim chiều hôm mang theo nắng chiều sa xuống mặt sông.
=> Hình ảnh cánh chim chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà và cái buồn cô liêu của người lữ khách (so sánh).
– Câu thơ 3: Lòng quê: nỗi nhớ quê hương gợi lên theo sóng nước.
– Câu thơ 4: Xuất xứ từ câu thơ của Thôi Hiệu đời Đường: “Nhật mô hương quan hà xứ thị? Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” (“Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” – Tản Đà dịch thơ). Tứ thơ mới mẻ, học tập thơ xưa và sáng tạo thêm cái mới.
=> Đoạn thơ nói lên được nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình. Cảm xúc hướng về quê hương cũng là một cách gửi gắm nỗi niềm yêu nước thầm kín của nhà thơ.
– Nét đặc sắc nghệ thuật: Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển của thơ Đường với bút pháp lãng mạn của Thơ mới.
3. Kết bài
Tâm hồn nhà thơ đôn hậu, tinh tế. Đáng quý là cảnh vật và tâm trạng tác giả tuy buồn cô liêu nhưng rất đẹp, thể hiện tài năng và sự tinh tế trong cảm nhận thế giới tự nhiên và cuộc sống con người.
Tổng kết
– Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ,…). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ,… của bài thơ, đoạn thơ đó.
– Bài viết thường có các nội dung sau:
+ Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
+ Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
+ Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.
Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 4
I. Khái niệm
1. Nghị luận về thơ (đoạn thơ, bài thơ):
Là cách sử dụng tổng hợp những thao tác lí luận để làm rõ nội dung tư tưởng, phong cách nghệ thuật của thơ (đã tác động dưới cảm xúc thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật và những liên tưởng sâu sắc của người viết.
II. Nghị luận về một bài thơ
1. Đề bài: Phân tích bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
a. Tìm hiểu đề
Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:
Thời gian: Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp
Địa điểm: Chiến khu Việt Bắc. Lúc này, chủ tịch Hồ Chí Minh đang trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ nhưng vô cùng oanh liệt của nhân dân ta.
Nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ
Nội dung:
Vẻ đẹp núi rừng đêm trăng chiến khu Việt Bắc
Hình ảnh người thi sĩ chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh (yêu thiên nhiên, nặng lòng lo nỗi nước nhà).
Nghệ thuật: Vẻ đẹp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại
b. Lập dàn ý:
Mở bài: Hoàn cảnh sáng tác, luận đề, trích dẫn bài thơ
Thân bài:
Luận điểm 1: Cảnh đẹp đêm trăng ở chiến khu Việt Bắc
Luận cứ: Hai câu thơ đầu
Hình ảnh: đẹp
Thi vị: Trăng, hoa, cổ thụ, tiếng suối.
Luận điểm 2: Hình tượng nhân vật trữ tình: thi sĩ – chiến sĩ
Luận cứ: 2 câu cuối
Tâm trạng: chưa ngủ
Tình cảm: yêu thiên nhiên, lo nước
Luận điểm 3: Vẻ đẹp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại
Luận cứ:
Cổ điển: thể thơ tứ tuyệt, bút pháp miêu tả, hình ảnh thiên nhiên
Hiện đại: Nhân vật trữ tình không phải là ẩn sĩ lãnh đời mà là chiến sĩ (Cảm hứng chủ đạo là tình cảm đất nước).
Luận điểm 4: Đánh giá nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ
Kết bài:
Khẳng định bài thơ
Cảm nghĩ của bản thân về Bác.
Ghi nhớ:
Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ…). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ,…của bài thơ, đoạn thơ đó.
Bài viết thường có các nội dung sau:
Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ
Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ
Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.
Luyện tập
Hãy phân tích đoạn thơ sau trong bài Tràng Giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời non nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trả lời:
Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng “ảo não” nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của con người này, Xuân Diệu viết: “Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thièn thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bồng lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thô thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?”
Chẳng cần tới tập Lứa thiêng, chí riêng bài thơ Tràng Giang cũng đủ làm nên hồn thơ “ảo não” – Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn Tràng Giang:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Lớp lớp những tầng mây hợp thành núi mây
Nếu như trong ba khổ thơ đầu, tâm trạng buồn – “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên” (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được mở lên chiều cao, lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa
“Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng”, đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi “Tràng Giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ được những vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Đó là cảnh thực, song cung là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết được hình tượng “núi bạc”, thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh “núi bạc” ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ “đùn”: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp” (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự: Ông học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng Giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)… Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.
Trong thơ ca cổ điển cùng như hiện đại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội nghiộp, gợi lên cái buồn vắng, trống trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó lại là một cánh chim “nghiêng cánh nhỏ” và đang chở nặng “bóng chiều sa” cứ xa mờ dần đối lập với hình ảnh “núi bạc” hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự tương phản ấy khiến cảnh “Tràng Giang” đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và “Tràng Giang” đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe thêm lời tự bình của tác giả:
“Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa”.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thìa vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn “nghiêng cánh nhỏ” trong Tràng Giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo “cánh chim mỏi” cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
“Ngàn mai gió cuốn chim hay mỏi”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, “bóng chiều sa” ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài Thanh nhận xét: “Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy – tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ…”.
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối rất hay. Nếu như câu thơ “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Chữ “sa” rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” ấy, chứ không phải là “xa”, bởi nếu đó là “bóng chiều xa” thì nỗi buồn của thi nhân chỉ giản đơn là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên” của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi “sầu nhân thế” như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian của “bóng chiều sa” ấy, và nó còn thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Trong suốt hành trình “Tràng Giang”, ta luôn gặp những từ láy: “điệp điệp”, “song song”, “đìu hiu”, “lớp lớp”… tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết, và nốt nhạc kết thúc là “dợn dợn”, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng. “Dợn dợn” diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng: ta với ta
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc Lâu – Tản Đà dịch)
Gợi lên từ tứ thơ ấy của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Cũng là tấm “tình quê” của Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn, bởi tấm “tình quê” ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường; hiện đại ở cách nói trái ngược với ý Thôi Hiệu – một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy “lãng mạn”. Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt – không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng “tình quê” Huy Cận vẫn trào dâng:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái “nhớ” ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh – nơi chôn nhau cắt rốn, mà “nhớ nhà” nên hiểu theo nghĩa rộng là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận lại có tâm sự lạc loài ấy. Chính vì thế, Huy Cận đã nói: “Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường”. Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật là sâu nặng.
Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như kéo dài, vang vọng mãi theo cái âm điệu “dập dềnh như sóng nước Tràng Giang” của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống – những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của thi nhân – “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim – lặng lẽ thế nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối – khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng “ảo não”, càng “buồn” bấy nhiêu.
Ai đó đã nói: Thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng Giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy trong tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng, cao quí – tình yêu đất nước.
Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 5
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Làm bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ cũng như cách làm các kiểu bài nghị luận khác gồm các bước sau :
a) Tìm hiểu đề và tìm ý;
b) Lập dàn bài;
c) Viết bài;
d) Đọc lại bài viết và sửa chữa.
2. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ vẫn phải đảm bảo bố cục ba phần :
a) Mở bài : Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ, nêu nhận xét khái quát về đoạn thơ, bài thơ đó.
b) Thân bài : Lần lượt trình bày những cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ.
c) Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.
Cần nêu được những nhận xét, đánh giá và sự cảm nhận riêng của người viết về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ trên cơ sở phân tích, bình giá hình ảnh, ngôn từ, kết cấu và giọng điệu, nội dung, cảm xúc trong đoạn thơ, bài thơ đó.
II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
Câu 1. Tìm hiểu đề bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
a) Các đề bài trên có cấu tạo chia làm hai loại. Một loại đề có những từ ngữ chỉ rõ cách thức tiến hành bài làm : phân tích, cảm nhận và suy nghĩ, cảm nhận, gợi cho em những suy nghĩ gì,…
Một loại đề không có những từ ngữ định hướng : đề số 4, đề số 7.
b) Các từ ngữ trong đề bài như phân tích, cảm nhận và suy nghĩ biểu thị những yêu cầu định hướng cách làm bài.
– Phân tích : yêu cầu phải phân tích đoạn thơ, bài thơ, đi sâu vào các phần nhỏ của nó để rút ra những nhận định cần thiết.
– Cảm nhận : lưu ý đến ấn tượng và cảm thụ riêng của người viết về đoạn thơ, bài thơ đó, nhấn mạnh đến yếu tố cảm thụ chủ quan.
– Suy nghĩ : nhằm nhấn mạnh tới những suy nghĩ riêng, những kết luận rút ra trên cơ sở suy luận về những yếu tố nội dung, nghệ thuật và kết luận lô-gíc rút ra từ đó.
Trường hợp không có những từ ngữ chỉ định, người viết phải tự xác định việc bày tỏ ý kiến, đánh giá của mình về vấn đề được nêu ra trong đề bài. Ví dụ đề số 4 là hình tượng người chiến sĩ lái xe trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Đề số 7 là những đặc sắc trong bài thơ Viếng lăng Bác. Vấn đề là phân tích hay cảm nhận, phân tích hay suy nghĩ, phân tích hay bình luận là do người viết tự chọn lựa. Cốt làm rõ được hình ảnh người chiến sĩ lái xe hay làm rõ được những đặc sắc của bài thơ.
Câu 2. Cách làm bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ
Tìm hiểu bài Quê hương trong tình thương, nỗi nhớ:
a) Trong văn bản trong SGK, phần Thân bài bắt đầu từ “Nhà thơ đã viết Quê hương bằng tất cả tình yêu tha thiết” cho đến “tâm hồn thiết tha, thành thực của Tế Hanh”.
Ở phần này, người viết đã trình bày những nhận xét về tình yêu quê hương nồng nàn, tha thiết của tác giả thể hiện trên các hình ảnh, cảm xúc :
– Trai làng ra khơi đánh cá mạnh mẽ, hào hứng.
– Thuyền đánh cá trở về trong sự chào đón của dân làng.
– Cảm nhận tinh tế về con người, cảnh vật của quê hương.
– Những hình ảnh, ngôn từ, âm điệu thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, rung động tinh tế.
Các ý kiến trên được dẫn dắt, khẳng định qua việc chọn, phân tích những câu thơ tiêu biểu, những hình ảnh thơ đặc sắc.
Các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài gắn kết với nhau chặt chẽ, tự nhiên. Mở bài giới thiệu ấn tượng chung về bài thơ Quê hương. Thân bài triển khai những thành công của bài thơ về tình cảm quê hương. Kết bài khái quát giá trị bồi đắp tình yêu quê hương của bài thơ.
b) Nhìn chung vãn bản có tính thuyết phục. Người viết đã tập trung làm rõ tình yêu quê hương tha thiết của Tế Hanh được thể hiện bằng những hình ảnh đẹp, giàu sức gợi của làng chài. Trong khi nêu luận điểm, người viết đã chỉ ra sự đặc sắc của hình ảnh, nhịp điệu, âm hưởng của những câu thơ dạt dào tình yêu quê hương. Người viết cũng thực sự xúc cảm, rung động với bài thơ, rung động với tình yêu quê hương.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Phân tích khổ thơ đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh.
Mở bài : Giới thiệu khổ thơ đầu.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Đây là khổ thơ nêu những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về những dấu hiệu mùa thu đã về.
Thân bài :
– Phân tích những cảm nhận tinh tế về những dấu hiệu của mùa thu :
+ Hương ổi chín là hương quả mùa thu.
+ Gió se là gió heo may hanh và se se lạnh – gió của mùa thu.
+ Sương chùng chình qua ngõ là sương mùa thu.
– Phân tích giá trị gợi tả của các từ phả, chùng chình, hình như.
Những cảm nhận này kết hợp các giác quan : khứu giác, xúc giác, thị giác (mùi hương, cái lạnh se, sự chùng chình).
– Cảm nhận từ gần ra xa, từ bên người ra ngoài ngõ.
Kết bài : Nhấn mạnh sự tinh tế trong cảm nhận về dấu hiệu của mùa thu.
Bài soạn “Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ” số 6
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Đối tượng của bài nghị luận về thơ rất đa dạng (một bài thơ, một đoạn thơ, hình tượng thơ, …). Với kiểu bài này, cần tìm hiểu từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu, cấu tứ, … của bài thơ, đoạn thơ đó.
Bài viết thường có các nội dung sau:
Giới thiệu khái quát về bài thơ, đoạn thơ.
Bàn về những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
Đánh giá chung về bài thơ, đoạn thơ.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1 (Trang 86 SGK) Hãy phân tích một đoạn thơ trong bài Tràng giang của Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Bài làm:
Mở bài
Giới thiệu Huy Cận, bài thơ Tràng giang và đoạn thơ phân tích.
Thân bài
1. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ, cảm xúc bao trùm bài thơ.
“Tràng giang” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận, sáng tác năm 1939, rút từ tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay của Huy Cận, sáng tác khoảng 1937- 1940. Tập thơ đã đưa Huy Cận trở thành một gương mặt tiêu biểu trong phong trào thơ mới thời kì đầu phát triển.
Huy Cận là thi sĩ thơ lãng mạn có nỗi buồn “ảo não”, “ngẩn ngơ” trước cái không gian bao la và thời gian thăm thẳm. Đó là nỗi buồn “sông núi”, nỗi buồn trước cảnh nước mất, nhà tan và nỗi buồn cô đơn của một thế hệ nhà “thơ mới” nằm tròn trong vòng một “chữ tôi” bế tắc, luôn luôn có niềm khao khát được hoà hợp cảm thông trong tình đất nước và tình nhân loại.
2. Nội dung đoạn thơ bao quát cảnh và tình trong toàn bộ bài thơ.
Bài thơ này là phân tích một bức tranh thiên nhiên sông nước hầu như đã trở thành cổ điển mà linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu mênh mang. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một nét buồn nào đó. Tất cả những nét buồn ấy cứ trở đi trở lại vẫn là bát ngát, mênh mông mà hoang vắng và có một cái gì đó tàn tạ, lụi tắt, cô đơn, bơ vơ, nổi trôi, chia lìa, phiêu dạt. Đây là nỗi buồn cô đơn rợn ngợp của cá thể trước cái không gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khao khát được hoà hợp cảm thông giữa người và người trong tình đất nước và tình nhân loại.
3. Phân tích khổ thơ
Khổ thơ ta bình giảng là khổ thứ nhất của bài thơ. Nó mở ra bằng một hình ảnh sông nước mênh mông trước một bức tranh thiên nhiên “Tràng giang” tàn tạ, quạnh hiu, nổi trôi, chia lìa, phiêu dạt.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Câu 1: Biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tác giả không viết về “núi cao”, “mây bạc”, mà viết “mây cao”, “núi bạc”. Đó là cách làm lộn dòng cảm giác khiến người đọc choáng ngợp… Động từ “đùn” tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ.
Câu 2: Cánh chim chiều hôm mang theo nắng chiều sa xuống mặt sông. Hình ảnh cánh chim chiều hôm gợi nỗi nhớ nhà và cái buồn cô liêu của người lữ khách (so sánh).
Hai câu sau thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê dâng ngập lòng người (tựa như con sóng bao phủ dòng sông). Đó là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho tâm hồn cô đơn, trống trải (nó không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của một người xa quê).
Nghệ thuật dùng từ láy âm “dợn dợn” lấy cái không có ở ngoại cảnh (không khói hoàng hôn) để nói cái có ở lòng người (nhớ nhà).
4. Đánh giá nội dung và nghệ thuật đoạn thơ.
Sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển của thơ Đường với bút pháp lãng mạn của Thơ mới.
Đoạn thơ nói lên được nỗi niềm bơ vơ, buồn bã của “cái tôi” trữ tình. Cảm xúc hướng về quê hương cũng là một cách gửi gắm nỗi niềm yêu nước thầm kín của nhà thơ.
Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển ở hình thức ngôn ngữ, ở bút pháp tả cảnh, tả tình.
Kết bài
Đánh giá chung về giá trị nội dung và nghệ thuật đoạn thơ
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.