Bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu tàn phá” là một tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ được sáng tác năm 760. Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của … xem thêm…chính bản thân Đỗ Phủ vì căn nhà bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là, vượt lên trên nỗi bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mơ có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất đã được Blogthoca.edu.vn tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Bài soạn “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” số 1
I. Đôi nét về tác giả Đỗ Phủ
– Đỗ Phủ (712-770) là nhà thơ hiện thực nổi tiếng vào đời Đường ở Trung Quốc, tự là Tự Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam
– Ông từng làm quan trong một thời gian ngắn nhưng gần như suốt đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật
– Năm 759, ông cáo quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam, một thời gian sống ở Thành Đô, phủ Tứ Xuyên.
– Ông để lại cho đời 1500 bài thơ
– Bút pháp hiện thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của ông đã ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau
II. Đôi nét về tác phẩm Bài ca nhà tranh bị gió thu phá
1. Hoàn cảnh ra đời
– Bài thơ được sáng tác năm 760. Khi được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa ở phía tây Thành Đô. Đỗ Phủ vừa ở nhà mới được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá nát.
– Bài thơ là một tác phẩm nổi tiếng của Đỗ Phủ
2. Bố cục (4 phần):
– Phần 1 (khổ 1): Cảnh ngôi nhà bị gió thu phá
– Phần 2 (khổ 2): Cảnh những đứa trẻ cướp tranh
– Phần 3 (khổ 3): Nỗi khổ của gia đình trong đêm
– Phần 4 (khổ 4): Ước vọng của nhà thơ
3. Giá trị nội dung
Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của chính bản thân Đỗ Phủ vì căn nhà bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là, vượt lên trên nỗi bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mơ có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ
4. Giá trị nghệ thuật
– Thể thơ cổ thể
– Sự sắp xếp các chi tiết theo trình tự hợp lí
– Kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm
III. Hướng dẫn trả lời câu hỏi
Câu 1 (trang 133 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Bài thơ chia làm 4 phần:
+ Phần 1 (khổ thứ nhất): tác giả miêu tả cảnh nhà tranh bị gió thu thổi bay lớp tranh
+ Phần 2 (khổ 2): Những đứa trẻ lấy nốt những lớp tranh bị thổi tung
+ Phần 3 (khổ 3): Nỗi khổ mà gia đình tác giả đối mặt trong đêm mưa
+ Phần 4 (khổ 4) Ước mơ cao cả của tác giả
b, Bài thơ có 3 khổ thơ 5 câu: khổ 1, 2 và 4
– Khổ thơ 1,2, 3 đa phần có 7 chữ trong mỗi câu thơ
– Khổ thơ 4 số chữ là 9, 10 chữ trong mỗi dòng
– Cách gieo vần:
+ Khổ thơ 2 và 3 gieo vần trắc: thể hiện sự khốn cùng đến đau xót, dằn vặt của tác giả
+ Khổ thơ cuối chủ yếu là vần bằng thể hiện mơ ước của tác giả về cuộc sống ấm no hơn.
Câu 2 (trang 134 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Phương thức biểu đạt
Miêu tả Tự sự: Phần đầu (3 khổ thơ đầu)
Biểu cảm trực tiếp Miêu tả kết hợp tự sự: Phần đầu (3 khổ thơ đầu)
Miêu tả kết hợp với biểu cảm: Phần đầu (3 khổ thơ đầu)
Tự sự kết hợp với biểu cảm: Phần đầu (3 khổ thơ đầu)
Phần sau ( khổ thơ cuối): không có phương thức nào
Câu 3 (trang 134 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Nỗi khổ khi ngôi nhà bị gió thu phá: cái bay sang sông, trên ngọn cây, rơi xuống lòng mương tơi tả
→Cảnh tượng điêu tàn
– Đỗ Phủ rất nghèo, để có được căn nhà đó phải nhờ vào sự trợ giúp của những người thân thích và bạn bè nay đã bị gió cuốn
– Nỗi khổ của sự bất lực: Hình ảnh lũ trẻ đua nhau cướp những tấm tranh chạy đi, đối diện với hình ảnh ông già chống gậy yếu ớt, bất lực
– Tình cảnh khổ cực khi phải đối mặt với cảnh mưa lạnh: chăn mền ướt rách nát, con thơ đạp lên rách nát thêm, cả nhà run rẩy
– Nỗi khổ trong chiến tranh loạn lạc: Chiến tranh là căn nguyên chính của những nỗi khổ thường nhật kia
+ Vì chiến tranh mà gia đình phải lang bạt, nhà thơ phải từ quan, những đứa trẻ phải đi cướp giật từ người khác
→Thông qua cách miêu tả sinh động, chân thực và hàm súc hiện lên cảnh khốn cùng của tác giả cũng chính là bức tranh chung của xã hội những ngày đen tối
Câu 4 (trang 134 sgk ngữ văn 7 tập 1)
Nếu không có đoạn cuối của bài thơ thì giá trị biểu cảm của bài thơ giảm đáng kể khi chỉ có giá trị hiện thực:
+ Người đọc sẽ chỉ nhìn thấy hoàn cảnh khốn khó của nhà thơ mà không nhìn thấy được tấm lòng nhân hậu của nhà thơ
+ Không thấy được vẻ đẹp của giấc mơ và tấm lòng nhân ái, vị tha của tác giả
→ Nhờ vào 5 câu thơ cuối nỗi đau của người trở thành tấm gương phản chiếu mạnh mẽ nhất nỗi đau chung của muôn người, muôn nhà
Luyện tập
Bài 2 (trang 134 sgk ngữ văn 7 tập 1)
+ Từ việc nói lên nỗi khổ của bản thân, Đỗ Phủ đã tố cáo hiện thực đen tối, cùng đường của xã hội đương thời
+ Trong đau khổ nhà thơ vẫn thể hiện tấm lòng nhân hậu, dành cho người dân nghèo khổ những người chung số phận
Bài soạn “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” số 2
I. VỀ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM
1. Tác giả.
Đỗ Phủ (712 – 770) là nhà thơ nổi tiếng đời Đường Trung Quốc. Đỗ Phủ quê ở tỉnh Hà Nam. Ông từng là quan trong một thời gian ngắn nhưng gần như suốt đời ông phải sống trong đau khổ và bệnh tật. Sống phải thời loạn lạc, Đỗ Phủ đã phải phiêu dạt đi rất nhiều nơi, rồi ông được bạn bè, người thân giúp đỡ dựng được ngôi nhà bên cạnh khe Cán Hoa (phía tây thành đô). Nhưng buồn thay, vừa chuyển đến ngôi nhà mới được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá nát. Bài thơ này ra đời trong hoàn cảnh ấy.
2. Tác phẩm
Đây là bài thơ được viết theo lối cổ thể (tương đối tự do về vần, luật, đối). Bằng bút pháp hiện thực sắc sảo cũng như tinh thần nhân đạo cao cả, bài thơ đã có ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca trung Quốc thời sau.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Câu 1. a) Bài thơ gồm bốn phần:
– Phần 1 (khổ thứ nhất): tác giả tả lại cảnh gió thu cướp mất lớp tranh của ngôi nhà.
– Phần 2 (khổ 2): kể lại cảnh trẻ con lấy nốt lớp tranh đã bị gió thổi tung.
– Phần 3 (khổ 3): tả lại nỗi khổ của gia đình trong đêm mưa.
– Phần 4 (khổ 4): ước mơ cao cả của nhà thơ.
b) Bài thơ có ba đoạn mỗi đoạn chứa năm câu (đây là hiện tượng hiếm thấy trong thơ ca cổ Trung Quốc, bởi thường số câu trong mỗi đoạn là nhịp chẵn). Riêng khổ ba dài hơn, gồm 8 câu, diễn tả nổi khổ cực vô hạn của nhà thơ. Đến khổ 4, các câu trong đoạn lại đều là những câu dài hơn các phần khác, có lẽ để diễn đạt những tâm tư, tình cảm và khát vọng cao đẹp và hũng vĩ của nhà thơ.
Việc bố trí sắp xếp các câu, các đoạn như vừa phân tích ở trên chứng tỏ Đỗ Phủ là người không quá câu về hình thức trong sáng tác. Ông có thể chủ động thay đổi số câu, số chữ, cách gieo vần,… cốt là để phục vụ tốt nội dung diễn đạt.
Câu 2. Các phương thức biểu đạt trong từng đoạn thơ:
Miêu tả
Tự sự
Biểu cảm trực tiếp: Phần 4
Miêu tả- tự sự: Phần 1
Miêu tả- biểu cảm: Phần 3
Tự sự – Biểu cảm: Phần 2
Tự sự- miêu tả- biểu cảm
– Ở phần thứ nhất, đằng sau sự mất mát về vật chất là nỗi đớn đau về mặt tinh thần (khi tác giả chứng kiến cảnh trẻ con cướp những tấm tranh – cuộc sống cùng cực quá đã làm thay đổi tính cách trẻ thơ).3. Nỗi khổ của nhà thơ được đề cập trong phần hai, đặc biệt là trong phần ba của bài thơ. Nó gồm cả nỗi khổ về vật chất và tinh thần, là nỗi khổ của cá nhân nhưng cũng là nỗi khổ của cả một xã hội, một thời đại.
– Ở phần ba, nỗi khổ của cả gia đình trong đêm mưa được nhà thơ miêu tả một cách chi tiết và cặn kẽ. Đêm tối mù mịt, nhà dột, chăn nát,… cơm mưa kéo dài suốt đêm không dứt càng làm cho nỗi khổ thêm chồng chất.
Bao nhiêu nỗi khổ ào ạt đến với nhà thơ nhưng ở trong hoàn cảnh ấy, sự lo lắng của nhà thơ không phải chỉ hướng đến gia đình, người thi sĩ còn trăn trở về cuộc đời, về thời thế nhiều hơn.
Câu 4. Giả sử nếu không có phần thơ cuối, chúng ta vẫn có một bài thơ hay, có giá trị biểu cảm cao. Bởi nó vẫn nói lên được nỗi thống khổ thực sự của con người trước sự tàn phá của thiên nhiên, cũng như vẫn nói lên được sự âu lo của nhà thơ trước việc đời (lo lắng về nhân cách của lũ trẻ).
Tuy nhiên nhờ có năm dòng thơ cuối mà nỗi đau của một người mới trở thành tấm gương phản chiếu nỗi đau của muôn người, muôn nhà. Hơn thế, nó còn cho thấy tư tưởng nhân văn cao đẹp của nhà thơ (khi đặt nỗi đau chung của đất nước, của muôn người lên trên nỗi đau riêng). Khổ thơ cuối chứa chan lòng vị tha nhân đạo. Ước mơ của nhà thơ tuy ảo tưởng nhưng rất đẹp, bởi có bắt nguồn từ khát khao về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, ấm no.
III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Cách đọc
Với ba đoạn thơ đầu, tác giả chủ yếu sử dụng phương thức tự sự và miêu tả, khi đọc cần chú ý những chi tiết miêu tả nỗi khổ: tranh bị gió cuốn, trẻ cướp mất tranh, cả nhà ngủ trong cảnh giột nát… Đến khổ thơ cuối đọc cao giọng hơn, thể hiện được khát vọng cao cả của tác giả.
2. Có thể tóm tắt đoạn văn như sau:
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá thể hiện nỗi thống khổ của bản thân Đỗ Phủ, đồng thời cũng là nỗi khổ của bao kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Có lẽ vì thế, nó sẽ mãi còn đủ sức lay động niềm trắc ẩn của độc giả cho tới mai sau.
Bài soạn “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” số 3
I. Tác giả
– Đỗ Phủ (712 – 770), tự Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc thời nhà Đường.
– Ông làm quan trong một thời gian rất ngắn nhưng gần như sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật.
– Năm 755, tướng An Lộc Sơn nổi dậy chống lại triều đình. Vì không được trọng dụng và cũng muốn tránh khỏi hiểm họa, ông cáo quan về quê ở cùng tây Nam.
– Đỗ Phủ cùng với Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Trung Quốc.
– Một số sáng tác tiêu biểu như:
Tập thơ Ngao du nam bắc (731 – 745)
Tập thơ Trường An khốn đốn (746 – 755)
Tập thơ Lưu vong làm quan (756 – 759)
Tập thơ Phiêu bạc tây nam (760 – 770)
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Năm 760, được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một ngôi nhà tranh bên cạnh Cán Hoa ở phía Tây Thành Đô.
– Ông vừa ở chẳng được bao lâu thì căn nhà bị gió phá nát. Chính vì vậy, ông đã sáng tác bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá để thuật lại sự kiện này.
– Đây là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông. Bút pháp hiện thực và tinh thần nhân đạo của bài thơ có ảnh hưởng sâu rộng đến thơ ca Trung Hoa sau này.
2. Bố cục
– Gồm 4 phần:
Phần 1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh nhà tranh bị gió thu phá.
Phần 2. Khổ thơ thứ 2: Cảnh lũ trẻ trong thôn đến ăn cắp tranh.
Phần 3. Khổ thơ thứ 3: Cuộc sống của gia đình trong đêm nhà tranh bị phá.
Phần 4. Khổ thơ thứ 4. Mong muốn của nhà thơ về tương lai.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh nhà tranh bị gió thu phá
– Thời gian: vào tháng 8 – vào mùa thu, có gió rét
– Sự kiện: Gió cuộn mắt ba lớp tranh của ngôi nhà.
– Hình ảnh ngôi nhà tranh khi bị gió cuộn mất:
“Gió thét già” – sự dữ dằn, mạnh mẽ của thiên nhiên.
Những mái tranh bị gió cuốn đi khắp nơi: bay sang sông rải khắp bờ sông, mảnh treo ở ngọn rừng, mảnh quay vào mương sa.
=> Hình ảnh chân thật khắc họa sự dữ dội, khắc nghiệt của thiên nhiên. Qua đó tái hiện được khung cảnh ngôi nhà tranh tiêu điều xơ xác. Đồng thời bộc lộ sự lo lắng buồn bã của tác giả.
2. Khổ thơ thứ 2: Cảnh lũ trẻ trong thôn đến ăn cắp tranh
– Hình ảnh những đứa trẻ ăn cắp tranh:
Khinh thường người già yếu đuối.
Xô đẩy, cướp giật những bức tranh.
Cắp tranh đi tuốt vào lũy tre.
=> Tác giả đã khắc họa hình ảnh những đứa trẻ vô cùng xấu tính với hành động cướp giật. Chúng chính là biểu hiện cho một xã hội loạn lạc, nghèo khổ lúc bấy giờ.
– Hình ảnh nhân vật trữ tình:
Môi khô miệng cháy gào chẳng được.
Chống gậy quay về nhà mà trong lòng đầy ấm ức.
=> Một ông lão yếu đuối tội nghiệp và bất lực. Đây chính là hình ảnh tượng trưng cho lớp người nghèo khổ, hiền lành ở xã hội bấy giờ luôn bị áp bức, bóc lột.
3. Khổ thơ thứ 3: Cuộc sống của gia đình trong đêm nhà tranh bị phá
– Hình ảnh thiên nhiên:
“gió lặng, mây tối mực”
“trời thu mịt mịt đêm đen đặc”
“mưa chẳng dứt”
=> Một đêm thu lạnh lẽo, trời lại còn mưa khiến con người thấy mệt mỏi.
– Cuộc sống gia đình:
“Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt”: Chăn đệm trong nhà đã cũ không đủ để sưởi ấm trong đêm lạnh.
“Con nằm xấu nết đạp lót nát”: Miếng lót cho đứa con cũng đã cũ nát.
“Đầu giường nhà dột chẳng thừa đâu”: Gió cuốn mái tranh bay đi khiến cho đêm mưa xuống nhà bị dột.
– Hình ảnh của nhân vật trữ tình:
“Từ trải cơn loạn ít ngủ nghêĐêm dài ướt át sao cho trót?”
=> Không ngủ được vì lo cho người dân cũng đang phải chịu nỗi cực khổ giống như mình, nhưng lại bất lực vì không thể giúp được họ vì mình cũng như vậy.
Qua đây cho thấy một tấm lòng cao cả, một lòng nghĩ cho thiên hạ của nhà thơ. Ông đã quên đi nỗi khổ của bản thân để nghĩ đến cái khổ của nhân dân, đó là một tấm lòng nhân đạo cao cả.
4. Khổ thơ thứ 4. Mong muốn của nhà thơ về tương lai
– Nhà rộng muôn ngàn gian để có thể che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo. Đây là một ước nguyện thiết thực, phù hợp với tấm lòng của nhà thơ.
– Để ước mơ ấy thành hiện thực, ông tình nguyện một mình chịu cảnh nghèo khổ.
=> Thể hiện tinh thần tương thân tương ái, tấm lòng nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ.
IV. Tổng kết
– Nội dung: Bài thơ đã thể hiện được nỗi khổ của nhà thơ vì căn nhà tranh bị gió thu phá. Đồng thời bộc lộ khát vọng cao cả đó là có một ngôi nhà vững chắc để che chở cho tất cả người nghèo trong thiên hạ.
– Nghệ thuật: Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, hình ảnh chân thực…
V. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Tìm hiểu và phân tích bố cục của bài thơ:
– Bài thơ gồm 4 phần:
Phần 1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh nhà tranh bị gió thu phá.
Phần 2. Khổ thơ thứ 2: Cảnh lũ trẻ trong thôn đến ăn cắp tranh.
Phần 3. Khổ thơ thứ 3: Cuộc sống của gia đình trong đêm nhà tranh bị phá.
Phần 4. Khổ thơ thứ 4. Mong muốn của nhà thơ về tương lai.
– Số câu trong mỗi phần: Phần 1 (5 câu), phần 2 (5 câu), phần 3 (8 câu), phần 4 (5 câu).
– Lý do các phần có sự khác nhau về số câu: phụ thuộc vào nội dung, tình cảm nhà nhà thơ muốn trình bày.
Câu 2.
– Phần 1: Miêu tả kết hợp tự sự
– Phần 2: Tự sự kết hợp biểu cảm
– Phần 3: Miêu tả kết hợp biểu cảm
– Phần 4: Biểu cảm trực tiếp
Câu 3. Những nỗi khổ nào của nhà thơ đã được đề cặp trong bài thơ? Tác giả đã miêu tả và thể hiện sinh động, khúc chiết những nỗi khổ đó như thế nào?
* Nỗi khổ cả về thể chất lẫn tinh thần:
– Vật chất:
Thiên nhiên khắc nghiệt không thương xót con người: mái tranh bị gió thu cuốn đi mất.
Con người thay đổi trong thời loạn lạc: lũ trẻ cướp mái tranh.
Gia đình đã thiếu thốn, nghèo khổ lại càng khổ hơn vì đêm mưa lạnh.
– Tinh thần: Thương xót cho bản thân, gia đình và cả những kiếp người nghèo khổ trong xã hội.
* Tác giả đã miêu tả sinh động và khúc triết nỗi khổ đó qua việc khắc họa hình ảnh cuộc sống của con người và thiên nhiên khắc nghiệt.
Câu 4. Giả thử không có năm dòng thơ cuối thì ý nghĩa, giá trị biểu cảm của bài thơ sẽ giảm đi như thế nào? Phân tích tình cảm cao quý của nhà thơ được biểu hiện qua phần cuối.
– Trong năm dòng thơ cuối, nhà thơ mong muốn cho tương lai:
Nhà rộng muôn ngàn gian để có thể che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo. Đây là một ước nguyện thiết thực, phù hợp với tấm lòng của nhà thơ.
Để ước mơ ấy thành hiện thực, ông tình nguyện một mình chịu cảnh nghèo khổ.
=> Thể hiện tinh thần tương thân tương ái, tấm lòng nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ.
II. Luyện tập
Dùng hai câu để nêu lên ý chính của đoạn văn sau đây bàn về Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ:
Gợi ý:
Qua Bài ca nhà tranh bị gió thu phá, Đỗ Phủ khôn chỉ nêu lên nỗi thống khổ của bản thân mà còn là của “kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ”. Qua đó thể hiện nỗi lòng yêu nước thương dân sâu nặng của nhà thơ.
Bài soạn “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” số 4
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
Về tác giả: Đỗ Phủ (712 -770) là nhà thơ nổi tiếng đời Đường của Trung Quốc tự là Tử Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở Hà Nam. Đỗ Phủ gần như suốt đời sống trong khổ đau, bệnh tật. Năm 755 loạn An Lộc Sơn, ông từ quan đưa gia đình về Tây Nam, Tứ Xuyên. Năm 760 được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng một nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa, vừa chuyển đến ngôi nhà mới được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá nát. Bài thơ này ra đời trong hoàn cảnh ấy.
Về bài thơ:
Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, được viết theo lối cổ thể (tương đối tự do về vần, luật, đối). Bằng bút pháp hiện thực sắc sảo cũng như tinh thần nhân đạo cao cả, bài thơ đã có ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca trung Quốc thời sau.
Đỗ Phủ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của bản thân vì căn nhà tranh bị gió thu phá nát. Vượt lên trên bất hạnh cá nhân, thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mong có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: (Trang 133 – SGK Ngữ văn 7 tập 1) Tìm hiểu và phân tích bố cục của bài thơ.
Bài thơ gồm mấy phần? Hãy chỉ ra ranh giới giữa các phần. Sự việc, cảnh vật được kể và tả theo một trình tự chặt chẽ như thế nào?
Thống kê số câu của mỗi phần và thử lí giải vì sao có phần dài phần ngắn phần cuối có số chữ nhiều hơn các phần khác?
Bài làm:
Bài thơ có thể chia thành 4 phần:
Phần 1 (5 câu đầu): miêu tả ngôi nhà tranh bị gió thu tốc mái.
Phần 2 (5 câu tiếp): trẻ con cướp tranh, nhà thơ quay về lòng ấm ức.
Phần 3 (8 cáu tiếp): Nỗi khổ của tác giả và gia đình trong đêm mưa.
Phần 4 (còn lại): niềm mơ ước của nhà thơ về cuộc sống ấm áp cho dân sinh và nguyện hi sinh bản thân mình nếu điều đó có thể làm cho nhân dân hạnh phúc.
Thống kê số câu của mỗi phần và lí giải:
Thống kê số câu
Về số câu: Bài thơ có 3 khổ 5 câu: khổ 1, khổ 2, khổ 4. Khổ 3 có8 câu
Về số chữ: Các khổ 1, 2, 3 đại đa số có 7 chữ trong mỗi dòng thơ. Riêng khổ cuối (khổ 4) số chữ lên tới 9, 10 chữ trong mỗi dòng.
Về gieo vần: Khổ 2, 3 gieo vần trắc (sức – giật được – ức- mực – đặc – sắc – nát – dứt – trót) . Khổ cuối lại nghiêng về vần bằng (giàu – hoan – bàn)
Lí giải:
Đoạn 3 khá bất thường, dài tới 8 câu. Tác giả tập trung miêu tả những chi tiết về sự cực khổ trong đêm mưa: nhà dột, rét buốt không ngủ được, ông đã thao thức. Điều đó đã khiến cho ý thơ nhiều hơn, dài hơn.
Trong khố thơ cuối, câu thơ dài hơn các khổ thơ trên để diễn đạt những tâm tư, tình cảm và khát vọng cao đẹp và hũng vĩ của nhà thơ.
Như thế, với bố cục trên, nhà thơ đã vượt lên những khuôn khổ gò bó của thơ cổ Trung Quốc về số câu, chữ, cách gieo vần điều đó đã biểu đạt thành công tư tưởng nhân văn sâu sắc của bài thơ.
Câu 2. (Trang 134 – SGK Ngữ văn 7 tập 1) Kẻ lại bảng sau và đánh dấu X vào ô mà em cho là hợp lí
Bài làm:
– Phần 1: Miêu tả kết hợp tự sự
– Phần 2: Tự sự kết hợp biểu cảm
– Phần 3: Miêu tả kết hợp biểu cảm
– Phần 4: Biểu cảm trực tiếp
Câu 3: (Trang 134 – SGK Ngữ văn 7 tập 1) Những nỗi khổ nào của nhà thơ được đề cập trong bài thơ? Tác giả đã miêu tả và thể hiện sinh động , khúc chiết những nỗi khổ đau đó như thế nào?
Bài làm:
Những nỗi khổ đau đó được Đỗ Phủ miêu tả trong bài thơ:
Nỗi khổ vì ngôi nhà bị gió cuốn: cái thì bay sang sông, cái thì treo trên ngọn cây, cái nhào xuống lòng mương tơi tả. Cảnh tượng thật kinh hoàng. Cách miêu tả của tác giả rất cụ thể mang đến cho người đọc một cái nhìn chua chát và sự bất lực của nhà thơ khi thấy mái tranh nhà mình bỗng chốc tan hoang. Đó chính là nỗi khổ đầu tiên trong bài thơ mà Đỗ Phủ miêu tả.
Đằng sau sự mất mát về vật chất là nỗi đớn đau về mặt tinh thần (khi tác giả chứng kiến cảnh trẻ con cướp những tấm tranh – cuộc sống cùng cực quá đã làm thay đổi tính cách trẻ thơ), một bên ông già chống gậy lọm khọm, miệng gào thét đến khô cháy mà chẳng đòi lại được.
Nỗi khổ phải nằm trong mưa lạnh: Đêm tối mù mịt, nhà dột, chăn nát, còn bị con thơ đạp làm rách thêm… cơm mưa kéo dài suốt đêm không dứt càng làm cho nỗi khổ thêm chồng chất.
Những nỗi khổ trên chỉ là bức phông nền cho sự xuất hiện nỗi khổ đến tận cùng giáng xuống đầu tác giả: tuổi cao lại do cảnh loạn li nên tác giả suốt một đêm không ngủ, để rồi trong nỗi đau khổ của bản thân người chỉ biết nghĩ đến cho thiên hạ, cho kẻ sĩ nghèo.
==> Cách miêu tả của nhà thơ rất sinh động, cụ thể, đồng thời tính hàm súc rất cao, chỉ bằng một vài câu ngắn gọn người đọc đã hình dung được cả cảnh tượng, nỗi khổ đó đã được nhân lên gấp bội và dấy lên sự xót xa, thương cảm trong lòng người đọc.
Câu 4: (Trang 134 – SGK Ngữ văn 7 tập 1) Giả sử không có 5 dòng thơ cuối thì ý nghĩa giá trị biểu cảm của bài thơ sẽ giảm đi như thế nào? Phân tích tình cảm cao quý của nhà thơ được biểu hiện qua phần cuối.
Bài làm:
Tinh thần nhân đạo, nhân văn cao cả của bài thơ được tác giả gửi gắm vào khổ thơ cuối cùng. Vậy nếu bài thơ chỉ dừng lại ở các khổ thơ trên sẽ chỉ làm rõ được giá trị hiện thực, đó chỉ là lời tự thán cho nồi khổ đau mà tác giả gặp phải và qua đó cũng chỉ dừng lại ở việc khơi gợi niềm thương xót của người đọc dành cho tác giả mà thôi. Do đó, giá trị biểu cảm của bài thơ sẽ giảm đi ít nhiều.
LUYỆN TẬP
Câu 1: (Trang 134 – SGK Ngữ văn 7 tập 1) Dùng tối đa là hai câu để nêu ý chính của đoạn văn sau đây bàn về “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” của Đỗ Phủ
Bài làm:
Bài ca nhà tranh bị gió thu phá không chỉ thể hiện nỗi thống khổ của bản thân Đỗ Phủ mà còn là nỗi khổ của bao kẻ sĩ nghèo trong thiên hạ. Tấm lòng yêu nước thương dân và lí tưởng, khát vọng cao cả của tác giả sẽ mãi còn mãi trong tâm khảm và trái tim của độc giả.
Phần tham khảo mở rộng
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong ” Bài ca nhà tranh bị gió thu tàn phá”
Bài làm:
1. Giá trị nội dung
Bài thơ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của chính bản thân Đỗ Phủ vì căn nhà bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là, vượt lên trên nỗi bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước mơ có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ
Đồng thời qua đó còn phản ánh được hiện thực của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ, đồng thấy người đọc thấy được tấm lòng nhân ái, vị tha của ông đối với cuộc đời, với mọi người.
2. Giá trị nghệ thuật
Thể thơ cổ thể
Sự sắp xếp các chi tiết theo trình tự hợp lí
Bút pháp hiện thực
Kết hợp tự sự, miêu tả, biểu cảm
Bài soạn “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” số 5
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Câu 1 – Trang 133 SGK
Tìm hiểu và phân tích bố cục của bài thơ.
Trả lời:
Bài thơ gồm 4 phần:
– Đoạn 1 (5 dòng đầu): Bối cảnh chung: Gió thu cuộn mất ba lớp tranh nhà tác giả.
– Đoạn 2 (5 dòng kế): Uất ức vì già yếu nên bị bọn trẻ con xô cướp giật mất tranh.
– Đoạn 3 (8 dòng kế tiếp): Nỗi khổ nhà dột, ướt lạnh, con quậy phá, lo lắng vì loạn lạc.
– Đoạn 4 (phần còn lại): Tình cảm cao cả vị tha của tác giả.
Cũng có thể có cách chia bố cục theo kiểu khác: bài thơ có 2 phần: phần đầu 18 câu làm nền và phần sau 5 câu thể hiện ước mơ cao cả, tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Đỗ Phủ. Riêng phần đầu có thể chia thành ba phần nhỏ.
Cách phân chia sau cũng rất hợp lí.
Câu 2 – Trang 134 SGK
Kẻ bảng vào vở và đánh dấu × vào ô mà em cho là hợp lí.
Trả lời:
– Phần 1: Miêu tả kết hợp tự sự
– Phần 2: Tự sự kết hợp biểu cảm
– Phần 3: Miêu tả kết hợp biểu cảm
– Phần 4: Biểu cảm trực tiếp
Câu 3 – Trang 134 SGK
Những nỗi khổ nào của nhà thơ đã được đề cập trong bài thơ? Tác giả đã miêu tả và thể hiện sinh động, khúc chiết những nỗi khổ đó như thế nào?
Trả lời:
Giây lát, gió lặng, mây tối mực,
Trời thu mịt mịt đêm đen đặc
Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt,
Con nằm xấu nết đạp lót nát
Đầu giường nhà dột chẳng chừa đâu
Dày hạt mưa, mưa, mưa chẳng dứt
Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê.
Đêm dài ướt át sao cho trót?
– Nỗi khổ vì ngôi nhà bị gió cuốn: cái thì bay sang sông, cái thì treo trên ngọn cây, cái nhào xuống lòng mương tơi tả. Cảnh tượng thật kinh hoàng.
Đỗ Phủ rất nghèo, để có được ngôi nhà tranh ấy phải nhờ vào sự giúp đỡ của những người thân thích và bạn bè nay bị gió cuốn, biết xoay sở làm sao.
– Nổi khổ vì thân tình thế thái: Hình ảnh thật thương tâm, một bên lũ trẻ đua nhau cướp những tấm tranh chạy đi, một bên ông già chống gậy lom khom, miệng gào thét mà chẳng đòi lại được.
– Nỗi khổ phải nằm trong mưa lạnh: Mưa chẳng dứt, nhà bị tốc mái, chăn mền ướt sũng rách nát, còn bị con thơ đạp rách thêm, rét lạnh tựa sắt, cả nhà run cầm cập.- Nỗi khổ vì chiến tranh loạn lạc: Đây mới là nỗi khổ lớn nhất và là nguyên nhân của ba nỗi khổ trên. Vì loạn lạc mà nhà thơ phải phiêu bạt, từ quan, vì loạn lạc mà những đứa trẻ khổ sở túng thiếu phải đi cướp giật của người khác. Và cũng vì loạn lạc mà nhà thơ phải đêm dài ít ngủ, chịu lạnh, chịu đói.
⟹ Cách miêu tả của nhà thơ rất sinh động, cụ thể, đồng thời tính hàm súc cao, chỉ bằng một vài câu ngắn gọn người đọc đã hình dung được cả cảnh tượng.
Câu 4 – Trang 134 SGK
Giả sử không có 5 dòng thơ cuối thì ý nghĩa, giá trị biểu cảm của bài thơ sẽ giảm đi như thế nào? Phân tích tình cảm cao quý của nhà thơ được biểu hiện qua phần cuối.
Trả lời:
Giá trị của bài thơ đã tăng lên nhiều lần nhờ ở đoạn kết:
“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian,
Cho khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan,
Gió mưa chẳng núng, vững vàng như thạch bản!
Than ôi! Bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt
Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”
Để viết những dòng thơ “xuất thần” tuyệt vời này, Đỗ Phủ vượt lên trên nỗi đau khổ, nghèo túng của chính bản thân mình.
Nhà thơ mơ ước có được “nhà rộng muôn ngàn gian” vững chãi trước giông bão gió mưa để che cho những kẻ sĩ nghèo trong khắp thiên hạ. Bao giờ nhìn thấy nhà ấy sừng sững dựng trước mắt thì riêng lều của nhà thơ tan nát, tấm thân cửa nhà thơ dẫu có chết vì giá rét vẫn cam lòng.
Đây đúng là một ước mơ cao cả chan chứa lòng vị tha (vì chỉ nghĩ tới người khác) và tinh thần nhân đạo (ưức mong cho mọi người được hân hoan vui sướng).
Tinh thần tiên ưu, hậu lạc (lo trước, vui sau) của Nho giáo đã thấm sâu vào tâm hồn Đỗ Phủ. Nhà thơ tuy nghèo khổ rất mực nhưng lại không muốn mình sung sướng trước mọi người. Ồng mơ ước cho mọi người được sung sướng trước ông và hơn ông.
Thật là một tư tưởng giàu tính nhân văn đáng ca ngợi.
LUYỆN TẬP
Câu 2 – Trang 134 SGK
Dùng tối đa là hai câu để nêu lên ý chính của đoạn văn sau đây bàn về Bài ca nhà tranh bị gió thu phá của Đỗ Phủ. (Đọc thêm bài trang 134 SGK Ngữ văn 7 tập 1)
Trả lời:
+ Từ việc nói lên nỗi khổ của bản thân, Đỗ Phủ đã tố cáo hiện thực đen tối, cùng đường của xã hội đương thời
+ Trong đau khổ nhà thơ vẫn thể hiện tấm lòng nhân hậu, dành cho người dân nghèo khổ những người chung số phận.
Tổng kết
Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt, Đỗ Phủ đã thể hiện một cách sinh động nỗi khổ của bản thân vì căn nhà tranh bị gió thu phá nát. Điều đáng quý hơn là, vượt lên trên bất hạnh cá nhân, nhà thơ đã bộc lộ khát vọng cao cả: ước sao có được ngôi nhà vững chắc ngàn vạn gian để che chở cho tất cả mọi người nghèo trong thiên hạ.
Bài soạn “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” số 6
I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Đỗ Phủ (712-770) là nhà thơ hiện thực nổi tiếng vào đời Đường ở Trung Quốc, tự là Tự Mĩ, hiệu Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam
– Ông từng làm quan trong một thời gian ngắn nhưng gần như suốt đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật
– Năm 759, ông cáo quan, đưa gia đình về vùng Tây Nam, một thời gian sống ở Thành Đô, phủ Tứ Xuyên.
2. Sự nghiệp sáng tác
– Ông để lại cho đời 1500 bài thơ
– Bút pháp hiện thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của ông đã ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau
3. Tác phẩm
Bài thơ Bài ca nhà tranh bị gió thu phá được viết theo lối cổ thể (tương đối tự do về vần, luật, đối). Bằng bút pháp hiện thực sắc sảo, cùng với tinh thần nhân đạo cao cả, bài thơ này đã có những ảnh hưởng khá sâu rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:
* Bài thơ có thể được chia làm 4 phần:
Phần 1: 5 câu đầu: Cảnh gió thu cướp mất lớp tranh của ngôi nhà.
Phần 2: 5 câu tiếp: Tâm trạng ấm ức vì già yếu nên đã bị bọn trẻ con xô cướp giật mất tranh.
Phần 3: 8 câu tiếp: Nỗi khổ nhà dột, ướt lạnh, con quậy phá và sự lo lắng về loạn lạc.
Phần 4: còn lại: Ước mơ cao cả của nhà thơ.
* Bài thơ có 3 đoạn mà mỗi đoạn chứa 5 câu, đây là một hiện tượng hiếm gặp trong thơ ca cổ Trung Quốc, bởi thường số câu trong mỗi đoạn là nhịp chẵn). Riêng khổ thơ thứ 3 thì dài hơn, gồm 8 câu, diễn tả nỗi khổ cực vô hạn của nhà thơ. Tiếp tục đến khổ thơ thứ 4, những câu trong khổ này đều dài hơn các phần còn lại, có lẽ để diễn đạt những tâm tư, tình cảm và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.
=> Đỗ Phủ là một nhà thơ không quá câu nệ về hình thức trong sáng tác thơ. Ông có thể chủ động thay đổi số câu, số chữ, cách gieo vần,…cốt là để phục vụ tốt nội dung diễn đạt.
Câu 2. Các phương thức biểu đạt trong từng đoạn thơ:
Miêu tả
Tự sự
Biểu cảm trực tiếp: Phần 4
Miêu tả- tự sự: Phần 1
Miêu tả- biểu cảm: Phần 3
Tự sự – Biểu cảm: Phần 2
Tự sự- miêu tả- biểu cảm
Câu 3:
* Những nỗi khổ của nhà thơ được đề cập trong bài thơ:
Nỗi khổ của ngôi nhà bị gió thu cuốn: cái thì bay sang sông, cái thì treo trên ngọn cây cao tít, cái nhào xuống lòng mương tơi tả => cảnh tượng thật kinh hoàng. Vốn dĩ Đỗ Phủ rất nghèo, ngôi nhà tranh ấy được dựng là phải nhờ vào sự giúp đỡ của người thân thích và bạn bè, nay lại bị gió cuốn, ông biết phải làm sao?
Nỗi khổ vì thân tình thế thái: hình ảnh một bên là lũ trẻ đua nhau cướp những tấm tranh chạy đi, một bên là ông già chống gậy lom khom, miệng thì gào thét đến khô cháy mà chúng không chịu nghe.
Nỗi khổ nằm trong mưa lạnh: nhà thì bị tốc mái mà mưa chẳng dứt, chăn mền cũng ướt sũng, con thơ thì rét mướt, quấy khóc.
Nỗi khổ vì chiến tranh loạn lạc: đây mới chính là nỗi khổ lớn nhất và là nguyên nhân chính dẫn đến 3 nỗi khổ trên. Vì loạn lạc mà nhà thơ phải từ quan, phiêu bạt, vì loạn lạc mà những đứa trẻ túng thiếu phải đi cướp giật của người khác, và cũng vì loạn lạc mà nhà thơ đêm dài ít ngủ, chịu lạnh, chịu đói.
=> Chỉ với vài nét chấm phá đơn sơ, Đỗ Phủ đã miêu tả sinh động và khúc chiết những nỗi khổ của ông, nhất là chỉ với nét điểm xuyết: từ trải cơn loạn ít ngủ nghê đã làm cho nỗi khổ của nhà thơ như được tăng lên gấp bội.
Câu 4:
* Giả thử không có 5 dòng thơ cuối thì bài thơ vẫn rất hay và vẫn có giá trị biểu cảm cao. Bởi nó vẫn nói lên được nỗi thống khổ thực sự của con người trước sự tàn phá của thiên nhiên, cũng như vẫn nói lên được sự âu lo của nhà thơ trước việc đời, hay nói cách khác là lo lắng về tương lai của lũ trẻ.
Tuy nhiên, nhờ có 5 dòng thơ cuối mà nỗi đau của một người mới trở thành nỗi đau phản chiếu của muôn người, muôn nhà. Hơn thế nữa, nó còn cho thấy tư tưởng nhân văn cao đẹp của nhà thơ khi đặt nỗi đau chung của đất nước, của muôn người lên trên nỗi đau riêng. Có thể nói, ước mơ của nhà thơ tuy viển vông, ảo tưởng nhưng lại rất đẹp, bởi nó bắt nguồn từ khát khao về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc và ấm no. Thật là một tư tưởng giàu tính nhân văn đáng ca ngợi.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.