Bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) khác với bài văn nghị luận về tư tưởng đạo lý hay một vấn đề trong đời sống. Ngoài bố cục ba phần có … xem thêm…mở bài, thân bài và kết bài thì ngoài ra một bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện phải nêu bật được các luận điểm, luận cứ nhằm nêu lên sư cảm nhận và ý kiến cá nhân của người viết về tác phẩm (hay đoạn trích) văn học đó. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” Ngữ văn 9 hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để có thể hiểu được rõ hơn cách làm một bài văn nghị luận dạng này là như thế nào đồng thời, có thể làm được một bài văn hoàn chỉnh dựa vào những lý thuyết được học.
Bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” số 1
I. Đề bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
a, Các vấn đề nghị luận:
– Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
– Diễn biến cốt truyện trong truyện Làng của Kim Lân
+ Thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du
+ Đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh, qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng
b, Sự khác nhau trong các đề bài trên thể hiện ở hai từ phân tích và suy nghĩ
– Phân tích: làm rõ những khía cạnh của vấn đề
– Suy nghĩ: đưa nhận định, đánh giá về tác phẩm theo khía cạnh, góc nhìn, vấn đề nào đó
– Trình bày suy nghĩ về tác phẩm, nên sử dụng nhiều thao tác, trong đó có phân tích
II. Tìm hiểu các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện
1. Tìm hiểu đề và tìm ý
2. Lập dàn ý
3. Viết bài
4. Đọc lại bài viết, sửa chữa
Luyện tập
Bài 1 (trang 68 sgk ngữ văn 9 tập 2)
đề bài: “Suy nghĩ về nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao”
Viết mở bài:
Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930 -1945, với các tác phẩm chủ yếu nói về người nông dân, tầng lớp tiểu tư sản trong xã hội cũ. Các sáng tác của ông phản ánh chân thực, sâu sắc tình cảnh của con người và xã hội lúc bấy giờ. Nam Cao xây dựng nhiều hình tượng độc đáo mang giá trị nhân đạo sâu sắc của ông, Trong đó lão Hạc là một trong những nhân vật có sức sống bền chặt trong lòng độc giả. Một ông lão nhà nông hiền lành, vị tha lâm vào hoàn cảnh khốn cùng của nghèo đói đã phải tìm đến cái chết để tự giải thoát bản thân.
Bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” số 2
Phần I: ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN (HOẶC ĐOẠN TRÍCH)
Trả lời câu hỏi (trang 65 SGK Ngữ văn 9, tập 2):
a. Các đề bài nêu những vấn đề về tính cách, số phận của nhân vật trong tác phẩm.
b.
– Đề “phân tích” yêu cầu phân tích tác phẩm rồi sau đó đưa ra nhận xét, thiên về tính khách quan.
– Đề “suy nghĩ” yêu cầu nêu ra nhận xét về tác phẩm trên cơ sở một tư tưởng, góc nhìn nào đó, thiên về chủ quan.
Phần II
(trang 68 sgk Ngữ Văn 9 Tập 2):
Đề bài: Suy nghĩ của em về truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao.
1. Lập dàn bài
a. Mở bài: giới thiệu về tác gia Nam Cao và truyện ngắn Lão Hạc.
b. Thân bài: nêu những suy nghĩ về nhân vật.
– Cảnh ngộ éo le của lão Hạc: vợ chết, con đi xa, một mình cô đơn lại bị ốm nặng.
– Tình thương con của một người cha (dù đói nhưng không bán mảnh vườn, giữ lại để cho con ngày trở về).
– Niềm day dứt của lão hạc sau khi bán con chó Vàng.
– Cái chết đau đớn của lão Hạc.
– Tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
c. Kết bài: Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật, thành công củ nhà văn khi xây dựng nhân vật lão Hạc.
2. Viết đoạn văn: dựa vào các ý chính trên. Tham khảo một số đoạn văn dưới đây.
a. Mở bài:
Nam Cao là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Truyện của Nam Cao nóng hổi chất hiện thực của thời đại và chan chứa tấm lòng yêu thương con người, đặc biệt là những người khốn khổ. Cùng với Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa,…. Lão Hạc là truyện ngắn đặc sắc. Nhân vật trung tâm của thiên truyện là Lão Hạc, một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con.
b. Thân bài:
Ở lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu. Tình cảm của lão với “cậu Vàng” được tác giả thể hiện thật cảm động. Lão gọi nó là “cậu Vàng” như “một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”. Lão bắt rận, cho nó ăn cơm trong một cái bát như nhà giàu.Lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng; lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí còn hơn phần lão…Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là con người. Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra sự dằn vặt, đau khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Đến nỗi ông giáo thương quá, “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”.Khi nhắc đến việc “cậu Vàng” bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không nén nổi đau dớn cứ dội lên “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con chó mà còn vì không thể tha thứ cho mình vì đã trót lừa một con chó. Ông lão quá lương thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi nhận thấy trong đôi mắt con chó có cái nhìn trách móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch thì mới bị giày vò lương tâm đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy!
Hay:
Lão Hạc mang một tấm lòng tự trong cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ảnh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy trách móc, mắng lão tệ hại: “A! Lão già tệ lắm!Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Ánh nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt cho nhà khác – một lý do làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão, hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy nhưng hóa ra, lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão chết cũng là để không bị cuộc sống dồn đẩy, bị sa hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo.Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết còn hơn. Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng trân trọng – lòng tự trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng.
Bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” số 3
I – Đề bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Đọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi
Đề 1. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Đề 2. Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Đề 3. Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.
Đề 4. Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Trả lời câu hỏi :
a) Các đề bài trên đã nêu ra những vấn đề nghị luận nào về tác phẩm truyện ?
Các đề bài đã nêu ra các vấn đề nghị luận :
– Đề 1 : Thân phận người phụ nữ (chủ đề tác phẩm)
– Đề 2 : Diễn biến cốt truyện (nội dung tác phẩm)
– Đề 3 : Thân phận Thúy Kiều (chủ đề tác phẩm)
– Đề 4 : Đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh (chủ đề tác phẩm)
b) Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài đòi hỏi bài làm phải khác nhau như thế nào ? (Gợi ý: đề phân tích yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét. Đề suy nghĩ yêu cầu đề xuất nhận xét về tác phẩm trên cơ sở một tư tưởng, gó nhìn nào đó, ví dụ quyền sống của con người, địa vị của người phụ nữ trong xã hội,… Tuy nhiên đây không phải là hai “kiểu bài” nghị luận.)
Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài đòi hỏi cách làm bài có sự khác nhau :
– Đề phân tích : từ việc phân tích tác phẩm, người viết sẽ rút ra nhận xét (đi từ phân tích đến tổng hợp).
– Đề suy nghĩ : từ việc dựa trên cơ sở một tư tưởng, một góc nhìn nào đó, người viết sẽ đề xuất nhận xét về tác phẩm ấy.
– Đây không phải là hai kiểu bài khác nhau mà chỉ khác nhau về sắc thái.
II – Các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Học sinh tự đọc trong SGK trang 65 – Ngữ Văn 9 tập 2
Ghi nhớ :
– Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có thể bàn về chủ đề, nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật của truyện.
– Bài làm cần đảm bảo đầy đủ các phần của một bài nghị luận :
+ Mở bài : Giới thiệu tác phẩm (tùy theo yêu cầu cụ thể của đề bài) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
+ Thân bài : Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ; có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
+ Kết bài : Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
– Trong quá trình triển khai các luận điểm, luận cứ, cần thể hiện sự cảm thụ và ý kiến riêng của người viết về tác phẩm.
– Giữa các phần, các đoạn của bài văn cần có sự liên kết hợp lí, tự nhiên.
III – Luyện tập
Cho đề bài : Suy nghĩ của em về truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao. Hãy viết phần Mở bài và một đoạn phần Thân bài.
– Mở bài :
Nam Cao được đánh giá là nhà văn hiện thực xuất sắc nhất thế kỉ XX trên văn đàn Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường để lại những ám ảnh, day dứt trong lòng độc giả về thân phận con người. Lão Hạc chính là một trong những truyện như thế.
– Thân bài :
Ở phần cuối truyện “Lão Hạc”, tác giả đặt nhân vật giữa hai tọa độ nhìn khác nhau: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm, triết lí về việc nhìn nhận và đánh giá của người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao đã thật cao tay – ông đưa ra một sự hiểu lầm thật sự bất ngờ để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông lật mở sự việc làm cho người đọc cảm phục và xót xa trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn nguyên vẹn, trong sạch cho đến lúc chết.
Bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” số 4
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM
I. ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN ( HOẶC ĐOẠN TRÍCH)
Đọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi:
Đề 1: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Đề 2: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Đề 3: Suy nghĩ về thân phận Thuý Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.
Đề 4: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
Câu hỏi:
a) Các đề bài đã nêu ra vấn đề nghị luận nào về tác phẩm truyện?
b) Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài đòi hỏi bài làm phải khác nhau như thế nào?
Trả lời:
a) Các đề bài trên đã nêu ra những vấn đề nghị luận sau:
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương.
Diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân
Thân phận của Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.
Đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
b) Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài yêu cầu ở người đọc những thao tác làm bài khác nhau. Cụ thể như:
Suy nghĩ: Thể hiện được những suy nghĩ, nhận định của bản thân về một vấn đề nào đó của tác phẩm.
Phân tích: Phân tích một khía cạnh nào đó của tác phẩm để rút ra được những giá trị của tác phẩm.
II. Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích)
Làm bài nghị luận về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích) thông qua các bước sau:
Tìm hiểu đề và tìm ý
Lập dàn bài
Viết bài
Đọc lại bài viết và sửa chữa
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
III- LUYỆN TẬP
Cho đề bài: Suy nghĩ của em về truyện ngắn “ Lão Hạc” của Nam Cao. Hãy viết phần Mở bài và một đoạn phần Thân bài
Bài làm:
Mở bài:
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những sáng tác để lại trong long người đọc nhiều day dứt và ám ảnh. Mỗi câu chuyện của ông đều mang dáng dấp của một đời người, một kiếp người lầm than trong xã hội. Nam Cao tập trung khai thác số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám, bế tắc, cùng cực đã khiến cho cuộc đời họ chìm vào nước mắt. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những câu chuyện cảm động về hình ảnh nghèo khó của người nông dân, đồng thời toát lên được vẻ đẹp tinh thần đáng quý của họ.
Thân bài:
Một đoạn của thân bài:
Cái chết của lão Hạc có rất nhiều nguyên nhân. Trước hết, đó chính là xuất phát từ lòng tự trọng của lão. Lão không muốn gây phiền hà cho lối xóm bà con nên đã âm thầm lo liệu mọi đường cho cái chết của mình từ khi bán “cậu Vàng”, đã gửi lại ông giáo toàn bộ số tiền dành nhìn ăn nhịn tiêu của lão để nhờ ông giáo đem ra, nói với hàng xóm lo giúp cho lão khi lão chết. Con người hết sức hiền hậu ấy cũng là con người hết sức tự trọng, quyết không nhận của bố thí, chỉ biết sống bằng bàn tay lao động của mình. Tình cảnh túng quẫn, đói khổ ngày càng đe dọa lão Hạc và đấy lão vào con đường chết, tìm một lối thoát cuối cùng. Đủ thấy số phận bi thảm của những người nông dân nghèo khổ ớ những năm đen tối trước Cách mạng tháng Tám. Nhưng suy cho cùng, việc lão tìm đến cái chết một cách tự nguyện cũng vì con. Nên nhớ, khi đó lão Hạc còn ba mươi đồng bạc (một số tiền khá lớn thời bấy giờ) và mảnh vườn ba sào. Nhưng lão nhất quyết không tiêu phạm vào cái vốn liếng cuối cùng mà lão đã dành cho con trai lão. Lão Hạc cũng là người đầy khí tiết, có lòng tự trọng. Thà chịu đói, chịu chết chứ không nhờ người khác. Với cái chết đau đớn dữ dội mà lão Hạc tự chọn, lão Hạc đã thể hiện một khí tiết cao quý, có ý thức nhân phẩm rất cao. Lão Hạc là con người “đói cho sạch, rách cho thơm”, “chết vinh hơn sống nhục”, là con người coi trọng nhân phẩm hơn cả cuộc sống.
Bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” số 5
Kiến thức cơ bản
• Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có thể bàn về chủ đề, nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật của truyện.
• Bài làm cần đảm bảo đầy đủ các phần của một bài nghị luận:
– Mở bài: Giới thiệu tác phẩm (tùy theo yêu cầu cụ thể của đề bài) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
– Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
– Kết bài: Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
• Trong quá trình triển khai các luận điểm, luận cứ, cần thể hiện sự cảm thụ và ý kiến riêng của người viết về tác phẩm.
• Giữa các phần, các đoạn của bài văn cần có sự liên kết hợp lí, tự nhiên.
Gợi ý trả lời câu hỏi SGK:
Đề bài nghị luận về tác phẩm (hoặc đoạn trích)
Đọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi:
(…Tr 64 – 65 SGK Ngữ văn 9 tập 2)
Câu hỏi
a) Các đề bài trên đã nêu ra những vấn đề nghị luận nào về tác phẩm truyện?
b) Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài đòi hỏi bài làm phải khác nhau như thế nào? (Gợi ý: Đề phân tích yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét. Đề suy nghĩ yêu cầu đề xuất nhận xét về tác phẩm trên cơ sở một tư tưởng, góc nhìn nào đó, ví dụ quyền sống của con người, địa vị của người phụ nữ trong xã hội,…)
Trả lời:
a) Các đề bài trên yêu cầu học sinh trình bày ý kiến cá nhân của mình trong việc phân tích, nhận xét hay đánh giá về một cốt truyện, một cuộc đời nhân vật, số phận hay tính cách của một nhân vật. Đây là những đề thuộc dạng mở, học sinh có thể kết hợp nhiều phương pháp nghị luận như giải thích, chứng minh, phân tích…
b) Các từ “suy nghĩ, phân tích” trong đề luận đòi hỏi hai hướng giải quyết vấn đề khác nhau, cách làm bài phải khác nhau.
– Đề “phân tích” yêu cầu phân tích tác phẩm rồi đưa ra nhận xét khách quan.
– Đề hỏi về “suy nghĩ” yêu cầu học sinh nêu ra nhận xét của riêng mỗi em, có phần mang tính chủ quan hơn.
Các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
1. Tìm hiểu đề và tìm ý bằng cách chép lại đề trên giấy rõ ràng, gạch dưới các từ quan trọng, các ý quan trọng, và tìm xem yêu cầu chính của đề bài là gì.
Ví dụ: Với đề 3 suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du, phải tìm ra yêu cầu:
a) Đề nghị luận nhắc đến nhân vật nào, tác phẩm nào?
b) Phải làm bài theo hướng phân tích hay trình bày suy nghĩ?
c) Ngoài yêu cầu phân tích hoặc nêu suy nghĩ, có còn yêu cầu nào khác không
2. Lập dàn bài: Bằng cách triển khai ba phần:
a) Mở bài
b) Thân bài
c) Kết bài
Trong phần thân bài, chúng ta cần sử dụng các câu hỏi tìm ý phía dưới.
3. Viết bài: bằng cách trả lời, triển khai các câu hỏi tìm ở phía dưới theo những phương pháp lập luận giải thích, lập luận chứng minh… Yêu cầu đầu tiên là phải viết đúng ngữ pháp. Yêu cầu cuối cùng là lời văn mạch lạc, bóng bảy, trau chuốt.
4. Đọc lại bài viết và sửa chữa chính tả, ngữ pháp, cách dùng từ.
Luyện tập
Cho đề bài: Suy nghĩ của em về truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.
Hãy viết phần Mở bài và một đoạn phần Thân bài.
Trả lời
1. Mở bài
Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,… Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Các sáng tác của ông vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những tác phấm tiêu biểu như thế! Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ.
2. Thân bài
Tham khảo 1 đoạn phần thân bài:
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật giữa hai tọa độ nhìn khác nhau: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm, triết lí về sự nhìn nhận và đánh giá của người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao thật cao tay – ông đưa ra một hiểu lầm thật bất ngờ để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc làm cho người đọc thỏa mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn nguyên vẹn, trong sạch cho đến chết.
Bài soạn “Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)” số 6
I. Đề bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
a) Các đề bài trên đã nêu ra những vẫn đề nghị luận
Nghị luận về vấn đề thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
Nghị luận về vấn đề diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.
Đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.
b) Sự khác nhau giữa các yêu cầu khi làm một bài văn say nghĩ và phân tích là:
Phân tích: Phân tích một tác phẩm hoặc một đoạn trích hay một phương diện nào đó của tác phẩm là đưa ra nhận định của bản thân hay quan điểm về giá trị của tác phẩm.
Suy nghĩ: Đưa ra nhận định, đánh giá chung của cá nhân về một tác phẩm theo một khía cạnh, góc nhìn hay vấn đề nào đó.
II. Các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Cho đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Đọc SGK dàn ý chi tiết.
III. Luyện tập bài Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Phần mở bài:
Nam Cao là một nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông đều mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, phê phán những bất công trong xã hội hiện thực, đề cao giá trị phẩm giá con người, nêu lên những cuộc đời bất hạnh, nghèo khó trong xã hội. Tác phẩm Lão Hạc cũng là một tác phẩm như thế. Truyện đã thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc số phận của một con người bần cùng, cảm động trước số phận của người nông dân trong xã hội cũ và những phẩm chất quý báu của họ.
Phần thân bài
Lão Hạc yêu con chó vàng của lão, lão coi nó như một người bạn, một người con, một người tri kỷ. Đối với ông nó như một kỷ niệm mà người con trai để lại cho ông, nhìn nó ông lại thương cho người con tội nghiệp của mình, đồng thời ông cũng thương cho chính số phận của mình, cả đời lam lũ, nghèo khó, ông coi nó như “đứa con cầu tự”. Chính vì thế, dù có những lúc khó khăn rơi vào cảnh bần cùng nhất ông cũng chưa bao giờ nghĩ tới việc bán nó. Vậy mà, cuối cùng chính tay ông lừa bán nó. Ta có thể thấy hết được sự đau khổ, cùng quẫn của lão Hạc. Phải day dứt, phải dằn vặt biết bao nhiêu hẳn ông lão mới có thể đưa ra cái quyết định ấy với tâm trạng vô cùng đau đớn “lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước”. Sự đau khổ của ông lão khiến cho ông giáo cũng phải đau lòng “muốn ôm chầm lấy lão mà khóc”. Ông lão đau đớn không hẳn vì mất con Vàng mà bởi ông không thể tha thứ cho chính mình. Oong cho rằng mình đã già như thế này mà còn đi lừa một con chó. Ông nhìn thấy cả sự trách móc, oán hận trông đôi mắt của con chó mà ông yêu quý. Con người đáng thương ấy hẳn phải có một trái tim nhân hậu biết mấy mới cảm thấy day dứt, hối hận về hành động của mình như vậy.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.