Top 6 Bài soạn “Lao xao” của Duy Khán lớp 6 hay nhất

Đoạn trích “Lao xao” trong “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán gây ấn tượng mạnh đối với người đọc về bức tranh thiên nhiên làng quê Việt Nam gắn liền với những kí … xem thêm…ức tuổi thơ không thể nào quên. Từng câu, từng chữ của Duy Khán như những nốt trầm bổng gieo vào lòng người đọc tình cảm yêu mến và trân trọng. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Lao xao” hay nhất mà Blogthoca.edu.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Lao xao” số 1

I. Đôi nét về tác giả: Duy Khán

– Duy Khán (1934-1993), quê ở huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
– Tác phẩm tiêu biểu: Tuổi thơ im lặng (tập hồi kí tự truyện của tác giả) – thông qua những hồi tưởng và kỉ niệm tuổi thơ, tác giả đã dựng lại những nét chấm phá về cuộc sống làng quê thuở trước trong bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt, đồ vật và hình ảnh con người
– Bài văn thể hiện tinh thần yêu nước tha thiết, sâu sắc của tác giả và những người con Xô viết trong hoàn cảnh thử thách gay gắt của cuộc chiến tranh vệ quốc. Đồng thời, bài văn đã nói lên một chân lí: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất (…). Lòng yêu nước, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc

II. Đôi nét về tác phẩm: Lao xao
1. Xuất xứ
Bài “Lao xao” được trích từ tác phẩm “Tuổi thơ im lặng” của Duy Khán, tác phẩm được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1987

2. Bố cục (2 phần)
– Phần 1 (từ đầu đến “râm ran”): Cảnh làng quê chớm hè
– Phần 2 (còn lại): Thế giới các loài chim

3. Giá trị nội dung
Bằng sự quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình yêu thiên nhiên, quê hương của tác giả bài văn vẽ nên những bức tranh cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc về thế giới các loài chim ở đồng quê

4. Giá trị nghệ thuật
– Sử dụng dày đặc từ láy
– Nghệ thuật nhân hóa, so sánh
– Miêu tả chi tiết, cụ thể, độc đáo
– Kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể và tả
– Chất liệu dân gian

Câu 1 (trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2):

Trình tự kể tả các loài chim được nói đến:

– Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú

– Chim ngói, nhạn, bìm bịp

– Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt.

– Trong bài, tác giả nhắc tới rất nhiều loài chim ở làng quê song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. Việc lựa chọn sắp xếp thứ tự tả có trình tự rõ rệt theo từng nhóm gần nhau:

+ Lý giải việc các loài chim có họ với nhau.

+ Tiếp đó là chim ngói, nhạn, bìm bịp giống bước trung gian.

+ Sau cùng là những loài chim ác.

– Cách dẫn dắt truyện tự nhiên, từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em đến chuyện các loài chim.

+ Mở đầu bằng tiếng kêu của bồ các để dẫn dắt lời kể, tiếp đó vận dụng cấu trúc đồng dao dân ca để phát triển mạch kể theo cấu trúc dân ca đồng dao để phát triển mạch kể.

Câu 2 (trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2): Nghệ thuật miêu tả các loài chim:

Tác giả tập trung vào những yếu tố nổi trội riêng của từng loài (tiếng kêu, cách bay, thói quen, hình dáng…) tạo nên sự phong phú, đa dạng.

– Chim bồ các kêu “váng” lên

– Cậu sáo sậu, sáo đen đậu lên cả lưng trâu mà hót mừng được mùa.

– Chim ngói sạt qua.

– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc, chéc”

– Bìm bịp “suốt đêm ngày rúc rích trong bụi cây.

– Diều hâu bay cao, mũi khoằm, đánh hơi tinh.

– Chèo bẻo “những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến.

– Qụa lia lia láu láu…

→ Loài chim hiền được miêu tả bằng tiếng kêu và tiếng hót, loài trung gian được qua miêu tả màu sắc và tiếng kêu, loài chim ác qua miêu tả hoạt động bắt mồi và cách sinh tồn.

b, Tác giả kết hợp giữa tả và kể khá nhuần nhuyễn, tuần tự.

– Sự kết hợp giữa kể, tả trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài:

+ Việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo.

+ Tranh mồi giữa chèo bẻo và chim cắt.

c, Tác giả kết hợp kể, tả về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát tinh tế , vừa thay đổi được giọng văn mềm mại uyển chuyển.

– Thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, nhấn mạnh vào đặc điểm riêng biệt của loài chim như một xã hội loài người có hiền, dữ, mâu thuẫn được giải quyết bằng bạo lực…

→ Tình cảm, sự gắn bó mật thiết giữa tác giả với thiên nhiên.

Câu 3 (trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2): Chất liệu văn hóa dân gian.

Trong bài văn tác giả sử dụng một số chất liệu văn hóa dân gian:

– Bồ các là bác chim ri, chim ri là rì sáo sậu…. tu hú là chú bồ các

– Dây mơ, rễ má

– Kẻ cắp gặp bà già

– Sự tích chim bìm bịp

→ Cách sử dụng chất liệu dân gian nói trên làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể gần gũi mà sinh động với con người.

Tuy nhiên cách nhận định, đánh giá trên mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng.

Câu 4 (trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2):

– Bài văn đem đến những thông tin thú vị về các loài chim, từ tập tính, hình dáng cho tới thói quen bắt mồi…

– Giúp ta thêm hiểu, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.

III. LUYỆN TẬP

Câu 1: Tóm tắt

Trời chớm hè, cây cối um tùm, ngát hương hoa, bướm ong rộn rịp xôn xao. Thế giới các loài chim ở đồng quê hiện lên thật sinh động dưới ngòi bút của tác giả. Bồ các to mồm. Chị Điệp nhanh nhảu. Rồi sáu sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp suốt ngày đêm rúc trong bụi cây, diều hâu hung ác bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Chim cắt hung dữ, không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải.

Câu 2: Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.

Cần triển khái các ý sau:

– Loài chim mà em định miêu tả là gì?

– Nó có nhiều ở quê em không? Nó thường xuất hiện vào mùa nào?

– Miêu tả vẻ bên ngoài của loài chim ấy.

– Thói quen của loài chim ấy là gì?

– Sự xuất hiện của loài chim đó gợi cho em sự thích thú ra sao?

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Lao xao” số 2

Trả lời câu 1 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Đọc bài văn Lao xao (Duy Khán) và trả lời các câu hỏi:

a) Thống kê theo trình tự tên của các loài chim được nói đến.

b) Tìm xem các loài chim có được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau hay không?

c) Tìm hiểu cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi hình ảnh, chi tiết.

Lời giải chi tiết:

a) Các loài chim được nói đến trong bài văn: bồ các, chim ri, chim sáo, sáo sậu, sáo đen, tu hú, bìm bịp, diều hâu, quạ đen, quạ khoang, chim cắt, chèo bèo.

b)

– Trong bài, tác giả nhắc tới rất nhiều loài chim ở làng quê song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. Việc lựa chọn sắp xếp thứ tự tả có trình tự rõ rệt theo từng nhóm gần nhau:

+ Lý giải việc các loài chim có họ với nhau.

+ Tiếp đó là chim ngói, nhạn, bìm bịp giống bước trung gian.

+ Sau cùng là những loài chim ác.

c) Lời kể rất tự nhiên.

– Cách tả mỗi con vật đều rất độc đáo, rất đặc trưng cho hoạt động của mỗi loài. Nhờ nhân hoá mà thế giới loài chim như thế giới con người rất sinh động.

– Cách xâu chuỗi các hình ảnh chi tiết rất hợp lí và bất ngờ, chẳng hạn: Ai nghe tiếng bìm bịp kêu – nghĩ tới ông sư hổ mang lừa bịp chết mà hoá nên loài chim này.

⟶ Ông ta tự nhận mình bịp nên tiếng chim là “bìm bịp”.

⟶ Ông khoác áo nâu bởi nhà sư mặc đồ nâu ⟶ Chui rúc trong các bụi cây và là kẻ ác ⟶ Chim kêu thì chim ác, chim xâu mới ra mặt.


Trả lời câu 2 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Nhận xét nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể:

a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ ở điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính).

b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.

c) Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim.

Lời giải chi tiết:

a) Cách miêu tả các loài chim:

– Bồ các: tiếng kêu các các, vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh.

– Diều hâu: mũi khoằm, đánh hơi tinh lắm.

– Chèo bẻo: những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến. Ngày mùa chúng thức suốt đêm, mới tờ mờ đất nó đã cất tiếng gọi người “chè cheo chét”.

– Chim cắt: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn, khi đánh nhau chỉ xỉa bằng cánh.

b) Kết hợp giữa kể và tả trong môi trường sinh sống hoạt động của chúng và trong mối quan hệ các loài:

– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc chéc”.

– Tu hú đến khi mùa vải chín, khi quả hết, nó bay đi đâu biệt.

– Bìm bịp kêu thì chim ác mới ra mặt.

– Diều hâu bắt gà con, chim cắt xỉa chết diều hâu, chèo bẻo đánh diều hâu và chim cắt.

* Kết hợp tả với kể và bình luận:

– Chuyện con sáo nhà bác Vui tọ toẹ học nói, chuyện kể về sự tích con bìm bịp…

– Nói về họ nhà sáo: Họ của chúng đều hiền cả. Chúng đều mang vui đến cho giời đất.

– Nói về chèo bẻo: Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra, người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm.

– Nói vể chim cắt: Chúng là loài quỷ đen, vụt đến, vụt biến… cho đến nay chưa có loài chim nào trị được nó.

c) Qua sự miêu tả trong bài văn này, không chỉ thấy tác giả có vốn hiểu biết phong phú, tỉ mỉ vể các loài chim ở làng quê mà chúng ta còn cảm nhận được tình cảm yêu mến và gắn bó với thiên nhiên làng quê. Đặc biệt nhà văn vẫn giữ được nguyên vẹn cho mình cái nhìn và những cảm xúc hồn nhiên của tuổi thơ khi kể và tả vể thiên nhiên làng quê.


Trả lời câu 3 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hoá dân gian như thành ngữ, đồng dao, kể chuyện. Hãy tìm các dẫn chứng.

Cách cảm nhận đậm chất dân gian về các loài chim trong bài tạo nên nét đặc sắc gì và có điều gì chưa xác đáng?

Lời giải chi tiết:

Những yếu tố vần hoá dân gian trong bài:

– Đồng dao: Bồ các là bác chim ri… là chú bồ các…

– Thành ngữ: Dây mơ, rễ má; Kể cắp gặp bà già; lia lia láu láu như quạ vào chuồng lợn.

– Truyện cổ tích: Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo.

* Chất văn hoá dân gian còn thấm đượm trong cái nhìn và cảm xúc của người kể vể các loài chim và cuộc sống ở làng quê. Đó là cách nhìn các loài chim trong mối quan hệ với con người, với công việc nhà nông, là những thiện cảm hoặc ác cảm với từng loài chim theo những quan niệm phổ biến và lâu đời trong dân gian, đôi khi gán cho chúng những tính nết hay phẩm chất như của con người (ví dụ: các nhận xét về bìm bịp, chèo bẻo). Trong những quan niệm dân gian ấy, bên cạnh nét hồn nhiên, chất phác, không phải không có những hạn chế của cách nhìn mang tính định kiến, thiếu căn cứ khoa học (ví dụ: từ chuyện về sự tích chim bìm bịp mà cho rằng chỉ khi con chim này kêu thì các loài chim ác, chim dữ mới ra mặt…).


Trả lời câu 4 (trang 113 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):

Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim?

Lời giải chi tiết:

– Bài văn đem đến những thông tin thú vị về các loài chim, từ tập tính, hình dáng cho tới thói quen bắt mồi…

– Giúp ta thêm hiểu, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.


LUYỆN TẬP

Nội dung: Quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.

Lời giải chi tiết:

Bài làm tham khảo

Chim hoạ mi

Chiều nào cũng vậy, con hoạ mi ấy không biết từ phương nào bay đến đậu trong bụi tầm xuân ở vườn nhà tôi mà hót.

Hình như suốt một ngày hôm đó, nó vui mừng vì đã được tha hồ rong đuổi bay chơi trong khắp trời mây gió, uống bao nhiêu nước suối mát trong khe núi, nếm bao nhiêu thứ quả ngon ngọt nhất ở rừng xanh. Cho nên những buổi chiều tiếng hót có khi êm đềm, có khi rộn rã, như một điệu đàn ai bấm trong bóng xế, mà âm thanh vang mãi trong tĩnh mịch, tưởng như làm rung động lớp sương lạnh mờ mờ rủ xuống cỏ cây.

Hót một lúc lâu, nhạc sĩ giang hồ không tên không tuổi ấy từ từ nhắm hai mắt lại thu đầu vào lông cổ im lặng ngủ, ngủ say sưa, sau một cuộc viễn du trong bóng đêm dày.

Rồi hôm sau, khi phương Đông vừa vẩn bụi hồng, con hoạ mi ấy lại hót vang lừng, chào sáng sớm. Nó kéo dài cổ ra mà hót, tựa hồ nó muốn các bạn xa gần đâu đó lắng nghe. Hót xong, nó xù lông rũ hết những giọt sương rồi nhanh nhẹn chuyển bụi nọ bụi kia, tìm vài con sâu, ăn lót dạ, đoạn vỗ cánh bay vút về phương Đông.

Ngọc Giao


Bố cục

Bố cục: 2 đoạn

– Đoạn 1 (Từ đầu … đến “râm ran”): Cảnh làng quê lúc chớm hè.

– Đoạn 2 (Còn lại): Thế giới các loài chim.

Nội dung chính

Bằng sự quan sát tinh tường, vốn hiểu biết phong phú và tình cảm yêu mến cảnh sắc quê hương, tác giả đã vẽ nên những bức tranh cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc về thế giới các loài chim ở đồng quê.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Lao xao” số 3

A.KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả:

Duy Khán (1934 – 1993)
Nguyên quán: Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh; trú quán: thành phố Hải Phòng; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Duy Khán sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo, từng tham gia nhập ngũ
Tác phẩm đã xuất bản: Trận mới (tập thơ, 1972); Tuổi thơ im lặng (truyện, 1986); Tâm sự người đi (tập thơ, 1987).
Nhà văn đã được nhận Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987 với tác phẩm: Tuổi thơ im lặng.


2. Tác phẩm:

Lao xao được trích từ tác phẩm Tuổi thơ im lặng của Duy Khán(1985)
Tác phẩm được giải thưởng Hội nhà văn năm 1987
Tóm tắt: Trời chớm hè, cây cối um tùm, ngát hương hoa, bướm ong rộn rịp xôn xao. Thế giới các loài chim ở đồng quê hiện lên thật sinh động dưới ngòi bút của tác giả. Bồ các to mồm. Chị Điệp nhanh nhảu. Rồi sáu sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp suốt ngày đêm rúc trong bụi cây, diều hâu hung ác bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Chim cắt hung dữ, không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2

Đọc bài văn Lao xao (Duy Khán) và trả lời các câu hỏi:

a) Thống kê theo trình tự tên của các loài chim được nói đến.

b) Tìm xem các loài chim có được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau hay không?

c) Tìm hiểu cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi hình ảnh, chi tiết.

Bài làm:
a) Trình tự các loài chim được nói đến là: bổ các, chim ri, chim sáo, sáo sậu, sáo đen, tu hú, bìm bịp, diều hâu, quạ đen, quạ khoang, chim cắt, chèo bẻo.
b) Các loài chim được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau, cụ thể:
Chim hiền
Chim dữ
Loài chim đánh lùi lũ chim ác: chèo bẻo
c) Cách dẫn dắt lời kể rất tự nhiên: từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em sang chuyện các loài chim.
Cách tả độc đáo, làm nổi bật nét đặc trưng của mỗi loài, thêm vào đó là phép nhân hóa làm sinh động thế giới loài chim: Chúng tôi chạy ùa ra, con cắt còn ngấp ngoải. Bây giờ tôi mới tận mắt nhìn thấy con cắt… khiến cho bài văn có một sức sống mạnh mẽ và vô cùng tươi tắn.
Cách xâu chuỗi các hình ảnh chi tiết rất hợp lí và bất ngờ: Ai nghe tiếng bìm bịp kêu – nghĩ tới ông sư hổ mang lừa bịp chết mà hoá nên loài chim này.

Câu 2: Trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2
Nhận xét nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể là:
a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ ở điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính).
b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.
c) Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim.
Bài làm:
a) Mỗi loài được miêu tả:
Tiếng kêu của bồ các: tiếng kêu các các, vừa bay vừa kêu cứ như bị ai đuổi đánh.
Hình dạng và đặc tính của diều hâu: mũi khoằm, đánh hơi tinh lắm.
Hình dạng, tiếng kêu, hoạt động của chèo bẻo: những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến, ngày mùa chúng thức suốt đêm, mới tờ mờ đất nó đã cất tiếng gọi người “chè cheo chét”.
Hình dạng và đặc tính của chim cắt: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợn, khi đánh nhau chỉ xỉa bằng cánh.
b) Trong bài văn, tác giả đã kết hợp tả và kể khá nhuần nhuyễn.
Những dẫn chứng: đang tả sáo sậu, sáo đen hiền thì xen kể “con sáo đen tọ toẹ học nói”; đang kể con tu hú lại kể về sự xuất hiện của mùa tu hú trong vườn nhà ông Tấn; hoặc đang kể về nguồn gốc con “bìm bịp” lại tả màu sắc, sau đó trở lại kể về môi trường sống của nó…
Sự kết hợp tả và kể còn được thể hiện trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài, chẳng hạn: việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo, giữa chèo bẻo và chim cắt.
c) Tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát rất tinh tế, vừa thay đổi được giọng văn làm cho mạch văn uyển chuyển, sinh động, thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết giữa tác giả và thiên nhiên: Giời chớm hè/ Cây cối um tùm/ Cả làng thơm. Tác giả vừa kể vừa tả, tả rồi lại kể, sau đó lại tả: Cây hoa lan nở hoa trắng xoá…

Câu 3: Trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2
Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hoá dân gian như thành ngữ, đồng dao, kể chuyện. Hãy tìm các dẫn chứng.Cách cảm nhận đậm chất dân gian về các loài chim trong bài tạo nên nét đặc sắc gì và có điều gì chưa xác đáng?
Bài làm:
Những yếu tố vần hoá dân gian trong bài:
Đồng dao: Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú là chú bồ các…
Thành ngữ: Dây mơ, rễ má; Kể cắp gặp bà già; lia lia láu láu như quạ vào chuồng lợn.
Truyện cổ tích: Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo
Từ bài đồng dao, những câu thành ngữ hay những truyện cổ tích xuất hiện trong bài khiến cho bạn đọc có cảm giác được sống trong một bầu không khí rất đỗi quen thuộc của văn hoá dân gian, ngoài ra, chúng làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể sinh động, chất phác mà gần gũi với đời sống con người.
Những bên cạnh đó là cách nhìn nhận và đánh giá mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng. Ví dụ: tiếng kêu của chim bìm bịp làm cho các loài chim ác xuất hiện…

Câu 4: Trang 113 sgk ngữ văn 6 tập 2
Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim?
Bài làm:
Từ bài văn, em có thể biết thêm những điều thú vị về đặc điểm, hình dáng, tập tính của một số loài chim và từ đó em yêu mến hơn, biết bảo vệ và phát triển vẻ đẹp của thiên nhiên, làng quê mình.

Luyện tập
Bài tập: trang 114 sgk Ngữ Văn 6 tập 2

Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em
Bài làm:
Trong vương quốc của các loài chim, sơn ca được người ta yêu quý mà đặt cho danh hiệu “danh ca” của rừng xanh bởi tiếng hót của đặc biệt, không trộn lẫn của chúng. Và đó cũng là loài chim quen thuộc ở quê hương em.

Buổi sáng đẹp trời, khi ông mặt trời vừa mới thức dậy và nhô mình lên khỏi lũy tre làng, vạn vật như bừng tỉnh giấc sau một đêm dài ngủ ngon. Không khí trong lành và mát rượi. Làn sương mỏng quấn quít trong không gian lưu luyến như chẳng muốn rời. Bốn bề tĩnh lặng và bỗng từ đâu vang lên từng hồi từng hồi thứ âm thanh trong trẻo cao vút. A, thì ra là chú chim sơn ca đang cất cao tiếng hót của mình như một bản nhạc chào ngày mới của riêng chú.

Sơn ca là loài chim nhỏ, con trưởng thành cũng chỉ bằng hai bàn tay người lớn úp lại. Màu lông của chúng rất đơn giản, sắc lông chỉ từ vàng nhạt đến nâu đậm. Chú chim sơn ca đậu trước sân nhà khoác lên mình bộ lông màu nâu sẫm có những đốm đen điểm xuyết trên đầu cánh như trang sức mà thiên nhiên dành tặng cho chú. Cái đầu của chú ta nhỏ, tròn như quả trứng. Phía trên đầu có một chùm lông, dựng thẳng đên như một chiếc vương miện. Đôi mắt chú nhỏ, đen như hạt đỗ. Cái mỏ bé xíu màu vàng cứ chuyển động liên tục. Chân của chú nhỏ, ngón chân sau khá dài. Cái đuôi chú khá dài, cong và hơi chúi xuống đất để giữ thăng bằng khi di chuyển. Đặc biệt, điểm nổi bật của sơn ca là chỉ đi chứ không nhảy giống họa mi, vành khuyên hay chích chòe. Khi bay chúng thường bay vút lên cao rồi từ từ hạ cánh, vừa hạ cánh vừa hót từng hồi. Tiếng hót của sơn ca rất hay, trong và cao. Có lẽ đó cũng là lý do sơn ca được người yêu chim trân trọng và nâng niu.

Ông và bố em thường thức dậy từ sớm tin mơ rồi pha một ấm chè đặc rồi ngồi nhâm nhi trước sân nhà rồi lắng nghe tiếng hót của chim sơn ca. Đó là sở thích đặc biệt của ông và bố. Ông và bố nói với em rằng đây chính là quãng thời gian thảnh thơi, thoải mái nhất trong ngày của hai người. Hai người thường ngồi im lặng, nhấp một ngụm trà rồi nhắm mắt lại lim dim. Lúc ấy, em thấy khuôn mặt của ông và bố như giãn ra, hạnh phúc lắm. Thì ra, những thú vui bình dị, những con vật gần gũi, những thứ âm thanh quen thuộc của làng quê lại ấm áp và khiến cho người ta thương nhớ và hạnh phúc đến thế.

Tiếng chim sơn ca trong trẻo và nhưng buổi sáng ngồi cùng ông với bố trước sân nhà có lẽ sẽ là những kỉ niệm tuổi thơ mà em không bao giờ quên trong suốt cuộc đời này. Vì chỉ cần nghe tiếng chim sơn ca, em như được nhìn thấy hình ảnh của ông với mái tóc bạc trắng cầm cốc nước chè thong thả uống và khuôn mặt với nụ cười hiền hậu của bố….

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Lao xao” số 4

Tìm hiểu tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

– Nguyễn Duy Khán (1934-1993) quê ở thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

– Là một văn thi sĩ người Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

– Thời niên thiếu, ông từng được đi học trong vùng Pháp kiểm soát, nhưng do ảnh hưởng của 2 người anh trai là Nguyễn Đình Thư và Nguyễn Đình Thả, năm 15 tuổi, ông bỏ dở việc học trốn ra vùng Việt Minh kiểm soát để nhập ngũ.

– Do có nền tảng học vấn tốt, ông được đơn vị phân công dạy học, rồi làm phóng viên chiến trường cho chương trình Phát thanh Quân đội.

– Năm 1972, ông về công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, làm biên tập viên, từng có thời gian khá dài công tác ở quần đảo Trường Sa.

– Năm 1987, ông được trao tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam cho tác phẩm hồi kí Tuổi thơ im lặng (1986).

– Năm 2012, ông được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật.

– Các tác phẩm tiêu biểu: Trận Mới (1972), Một tiếng Xa Ma Khi (1981), Tâm sự người đi (1984), Tuổi thơ im lặng (1986).

2. Tác phẩm

– Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986 là tác phẩm nổi tiếng nhất của Duy Khán, được xem là bước ngoặt lớn trong sự nghiệp cầm bút của ông.

– Tác phẩm đã được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1987.

– Hồi ký tập hợp gồm nhiều chương nhỏ trải dài từ lúc tác giả bắt đầu biết nhận thức cho đến khi gia nhập quân đội năm 15 tuổi. Mỗi chương là những ký ức sinh động về làng quê Bắc Ninh, từ thiên nhiên, phong tục, lễ hội đến mảnh đời những con người có số phận éo le, con vật nuôi, qua con mắt trẻ thơ, không định kiến của cậu bé Khán.

– Thông qua hồi tưởng và kỉ niệm tuổi thơ, tác giả dựng lại những nét chấm phá về cuộc sống ở làng quê thuở trước trong những bức tranh thiên nhiên, sinh hoạt, đồ vật và hình ảnh con người. Cuộc sống ấy tuy nghèo khó, vất vả nhưng giàu sức sống bền bỉ và chứa đựng bản sắc văn hoá độc đáo của làng quê.

– Bố cục: 2 phần

+ Phần 1: (Từ đầu đến “lặng lẽ bay đi”): Phong cảnh làng quê vào lúc chớm hè.

+ Phần 2: (Còn lại): Thế giới các loài chim.


3. Tóm tắt văn bản Lao xao

Trời chớm vào hè, cây cối um tùm, tỏa ngát hương hoa, ong bướm nhộn nhịp bay nhảy. Thế giới của các loài chim ở đồng quê hiện lên sinh động với đa dạng các loài chim. Chim Bồ các thì to mồm, chị Điệp nhanh nhảu. Rồi cả sáo sậu, sáo đen, tu hú, chim ngói, chú chim nhạn hiền lành, gần gũi với con người. Bìm bịp thì lại suốt ngày rúc trong bụi cây, chim diều hâu hung ác đuổi bắt gà con, quạ lia lia láu láu dòm chuồng lợn, chim chèo bẻo kẻ cắp nhưng hung hăng, thích đánh nhau, đánh cả diều hâu lẫn quạ. Rồi có cả chim cắt hung dữ đến mức không một loài chim nào trị được thế mà bị chèo bẻo đánh cho ngắc ngoải.


Đọc – hiểu văn bản

1 – Trang 113 SGK

Bài văn tả và kể về các loài chim ở làng quê có theo một trình tự nào không, hay hoàn toàn tự do? Để trả lời câu hỏi này, em hãy:

a) Thống kê theo trình tự tên của các loài chim được nói đến.

b) Tìm xem các loài chim có được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau hay không?

c) Tìm hiểu cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi hình ảnh, chi tiết.

Trả lời:

a) Trình tự kể tả các loài chim được nói đến:

– Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú

– Chim ngói, nhạn, bìm bịp

– Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt.

b) Trong bài, tác giả nhắc tới rất nhiều loài chim ở làng quê song không phải tả một cách ngẫu nhiên hay lộn xộn. Việc lựa chọn sắp xếp thứ tự tả có trình tự rõ rệt theo từng nhóm gần nhau:

+ Lý giải việc các loài chim có họ với nhau.

+ Tiếp đó là chim ngói, nhạn, bìm bịp giống bước trung gian.

+ Sau cùng là những loài chim ác.

c) Cách dẫn dắt truyện tự nhiên, từ thiên nhiên đến con người, từ chuyện trẻ em đến chuyện các loài chim.

+ Mở đầu bằng tiếng kêu của bồ các để dẫn dắt lời kể, tiếp đó vận dụng cấu trúc đồng dao dân ca để phát triển mạch kể theo cấu trúc dân ca đồng dao để phát triển mạch kể.

2 – Trang 113 SGK

Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các loài chim. Cụ thể là:

a) Chúng được miêu tả về những phương diện nào và mỗi loài được miêu tả kĩ điểm gì? (hình dạng, màu sắc, tiếng kêu hoặc hót, hoạt động và đặc tính).

b) Kết hợp tả và kể như thế nào? Tìm những dẫn chứng cho thấy các loài chim được tả trong môi trường sinh sống, hoạt động của chúng và trong mối quan hệ giữa các loài.

c) Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua việc miêu tả các loài chim.

Trả lời:

a) Tác giả tập trung vào những yếu tố nổi trội riêng của từng loài (tiếng kêu, cách bay, thói quen, hình dáng…) tạo nên sự phong phú, đa dạng.

– Chim bồ các kêu “váng” lên

– Cậu sáo sậu, sáo đen đậu lên cả lưng trâu mà hót mừng được mùa.

– Chim ngói sạt qua.

– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc, chéc”

– Bìm bịp “suốt đêm ngày rúc rích trong bụi cây.

– Diều hâu bay cao, mũi khoằm, đánh hơi tinh.

– Chèo bẻo “những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu tới tấp bay đến.

– Qụa lia lia láu láu…

→ Loài chim hiền được miêu tả bằng tiếng kêu và tiếng hót, loài trung gian được qua miêu tả màu sắc và tiếng kêu, loài chim ác qua miêu tả hoạt động bắt mồi và cách sinh tồn.

b) Tác giả kết hợp giữa tả và kể khá nhuần nhuyễn, tuần tự.

– Sự kết hợp giữa kể, tả trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài:

+ Việc tranh cướp mồi giữa diều hâu và chèo bẻo.

+ Tranh mồi giữa chèo bẻo và chim cắt.

c) Tác giả kết hợp kể, tả về các loài chim, tác giả vừa thể hiện khả năng quan sát tinh tế , vừa thay đổi được giọng văn mềm mại uyển chuyển.

– Thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, nhấn mạnh vào đặc điểm riêng biệt của loài chim như một xã hội loài người có hiền, dữ, mâu thuẫn được giải quyết bằng bạo lực…

→ Tình cảm, sự gắn bó mật thiết giữa tác giả với thiên nhiên.

3 – Trang 113 SGK

Trong bài có sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian như thành ngữ, đồng dao, kể chuyện. Hãy tìm các dẫn chứng.

Cách cảm nhận đậm chất dân gian về các loài chim trong bài tạo nên nét đặc sắc gì và có điều gì chưa xác đáng?

Trả lời:

Trong bài văn tác giả sử dụng một số chất liệu văn hóa dân gian:

– Bồ các là bác chim ri, chim ri là rì sáo sậu… tu hú là chú bồ các

– Dây mơ, rễ má

– Kẻ cắp gặp bà già

– Sự tích chim bìm bịp

=> Cách sử dụng chất liệu dân gian nói trên làm cho mạch văn phát triển tự nhiên, lời kể gần gũi mà sinh động với con người. Tuy nhiên cách nhận định, đánh giá trên mang tính định kiến, gán ghép khiên cưỡng.

4 – Trang 113 SGK

Bài văn đã cho em những hiểu biết gì mới và những tình cảm như thế nào về thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim?

Trả lời:

– Bài văn đem đến những thông tin thú vị về các loài chim, từ tập tính, hình dáng cho tới thói quen bắt mồi…

– Giúp ta thêm hiểu, trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương.

Soạn bài Lao xao phần Luyện tập

Câu hỏi: Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.

Gợi ý:

Các em cần triển khái các ý sau:

– Loài chim mà em định miêu tả là gì?

– Nó có nhiều ở quê em không? Nó thường xuất hiện vào mùa nào?

– Miêu tả vẻ bên ngoài của loài chim ấy.

– Thói quen của loài chim ấy là gì?

– Sự xuất hiện của loài chim đó gợi cho em sự thích thú ra sao?

Tham khảo bài văn miêu tả Chim hoạ mi

Chiều nào cũng vậy, con hoạ mi ấy không biết từ phương nào bay đến đậu trong bụi tầm xuân ở vườn nhà tôi mà hót.

Hình như suốt một ngày hôm đó, nó vui mừng vì đã được tha hồ rong ruổi bay chơi trong khắp trời mây gió, uống bao nhiêu nước suối mát trong khe núi, nếm bao nhiêu thứ quả ngon ngọt nhất ở rừng xanh. Cho nên những buổi chiều tiếng hót có khi êm đềm, có khi rộn rã, như một điệu đàn ai bấm trong bóng xế, mà âm thanh vang mãi trong tĩnh mịch, tưởng như làm rung động lớp sương lạnh mờ mờ rù xuống cỏ cây.

Hót một lúc lâu, nhạc sĩ giang hồ không tên không tuổi ấy từ từ nhắm hai mắt lại thu đầu vào lông cổ im lặng ngủ, ngủ say sưa, sau một cuộc viễn du trong bóng đêm dày.

Rồi hôm sau, khi phương Đông vừa vẩn bụi hồng, con hoạ mi ấy lại hót vang lừng, chào sáng sớm. Nó kéo dài cổ ra mà hót, tựa hồ nó muốn các bạn xa gần đâu đó lắng nghe. Hót xong, nó xù lông rũ hết những giọt sương rồi nhanh nhẹn chuyển bụi nọ bụi kia, tìm vài con sâu, ăn lót dạ, đoạn vỗ cánh bay vút về phương Đông.

(Sưu tầm)

Ghi nhớ

Qua sự quan sát tinh tường cùng vốn hiểu biết phong phú kết hợp với tình cảm mến yêu với cảnh sắc quê hương, tác giả đã vẽ nên bức tranh quê hương vô cùng sinh động và nhiều màu sắc thông qua thế giới loài chim ở đồng quê.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Lao xao” số 5

I- Tìm hiểu chung

1. Tác giả

Duy Khán tên thật là Nguyễn Duy Khán, quê ở tỉnh Bác Ninh
Ông từng làm giáo viên và phóng viên chiến trường


2. Tác phẩm

“Tuổi thơ im lặng” là tập hồi kí tự truyện của tác giả, tinh hoa cuộc đời sáng tác của ông
Văn bản “Lão xao” trích từ “Tuổi thơ im lặng”


3. Bố cục

Phần 1: Từ đầu… lặng lẽ bay đi: phong cảnh làng quê vào lúc chớm sang hè
Phần 2: Còn lại: thế giới các loài chim


II- Đọc- Hiểu văn bản

Câu 1 trang 113 SGK văn 6 tập 2:

a. Thống kê trình tự các loài chim được nói đến:

Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú
Chim ngói, nhạn, bìm bịp
Diều hâu, chèo bẻo, quạ đen, quạ khoang, cắt
b. Các loài chim được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau: từ loài chim hiền đến chim ác

c. Cách dẫn dắt truyện, lời kể tự nhiên, hấp dẫn

Cách mở đầu bằng một bài đồng dao phù hợp với tâm lí trẻ thơ, gợi mối quan hệ họ hàng ràng buộc thân thiết trong thế giới loài chim

Câu 2 trang 113 SGK văn 6 tập 2:

a. Các loài chim được miêu tả ở những đặc điểm nổi trội riêng của từng loài: hình dáng, tiếng kêu, cách bay, cách săn mồi… làm nên sự phong phú, đa dạng

Loài chim hiền được miêu tả qua tiếng kêu và tiếng hót, các loài chim ác thì miêu tả qua cách bắt mồi và sinh tồn với các loài chim khác

b. Các loài chim được tả và kể trong mối quan hệ đấu tranh sinh tồn giữa các loài:

Việc diều hâu bắt gà con
Việc tranh mồi giữa chèo bẻo và diều hâu, chèo bẻo và chim cắt
c. Việc kết hợp kể, tả các loài chim thể hiện tài quan sát tinh tế, tỉ mỉ, vốn hiểu biết phong phú và tình yêu sâu đậm với quê hương của tác giả

Câu 3 trang 113 SGK văn 6 tập 2:

Chất liệu văn hóa dân gian trong bài:

Đồng dao: Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu. Sáo sậu là cậu sáo đen. Sáo đen là em tu hú. Tu hú lại là chú bồ các
Thành ngữ: dây mơ rễ má, kẻ cắp gặp bà già
Nét đặc sắc: làm cho giọng kể gần gũi, tự nhiên, sinh động
Điểm chưa xác đáng: các nhận xét chưa thật sự khách quan, còn mang tính định kiến


Câu 4 trang 113 SGK văn 6 tập 2:

Bài văn đã giúp chúng ta có thêm hiểu biết về các loài chim: hình dáng, tập tính, cách săn mồi, sinh tồn của chúng
Bồi dưỡng thêm tình cảm gắn bó, gần gũi với thiên nhiên, làng quê


III- Luyện tập

Miêu tả một loài chim ở quê em:

Sáng tinh mơ, vừa tỉnh dậy, chào đón em là những tiếng kêu của chú chim sẻ trong khu vườn nhà. Chú chim sẻ có cái đầu nhỏ và chiếc mỏ màu vàng. Cơ thể của chú mập mạp với những chiếc lông màu đen, vàng, trắng cùng đôi cánh tròn. Chim sẻ thường kiếm ăn trên đồng ruộng, trong các bụi cây. Thức ăn của chú chủ yếu là các loại sâu bọ, côn trùng nhỏ, chúng cũng ăn các loại hạt, quả và trái cây. Tiếng chiêm chiếp phát ra từ cái miệng nhỏ của chú nghe thật vui tai. Những ngày mùa, cả đàn chim sẻ sà xuống đồng lúa để kiếm những hạt thóc còn rơi vãi. Chim sẻ là loài chim hiền lành, chú được mọi người yêu mến vì là một người bạn hữu ích với nhà nông.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Bài soạn “Lao xao” số 6

I. Đọc – hiểu văn bản:

Câu 1: Trả lời câu hỏi:

a. Thống kê các loài chim được nói đến:

Bồ các, chim ri, sáo sậu, sáo đen, tu hú, bìm bịp, diều hâu, quạ đen, quạ khoang, chim cắt, chèo bẻo.

b. Các loài chim được sắp xếp theo từng nhóm loài gần nhau:

Chim hiền

Chim dữ

Loài chim đánh lùi lũ chim ác.

c. Cách dẫn dắt lời kể, cách tả, cách xâu chuỗi.

– Lời kể rất tự nhiên.

– Cách tả mỗi con vật đều độc đáo, có đặc trưng cho mỗi hoạt động của loài. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phép nhân hóa làm cho thế giới chim như thế giới con người.

– Cách xâu chuỗi các hình ảnh, chi tiết hợp lí và bất ngờ.

Câu 2: Nhận xét về nghệ thuật miêu tả các loài chim:

a. Cách miêu tả các loài chim:

– Bồ các: kêu các các, vừa bay vừa kêu váng lên cứ như bị ai đuổi đánh.

– Diều hâu: mũi khoằm, đánh hơi tinh.

– Chèo bẻo: những mũi tên đen, mang hình đuôi cá từ đâu bay đến . Ngày mùa, chúng thức suốt đêm, mới tò mờ đất nó đã cất tiếng gọi người: chè cheo chét.

– Chim cắt: cánh nhọn như dao bầu chọc tiết lợ, khi đánh nhau chr xỉa bằng cánh.

b. Kết hợp giữa kể và tả trong môi trường sinh hoạt của chúng và trong mối quan hệ các loài:

– Nhạn vùng vẫy tít mây xanh “chéc chéc”.

– Tu hú đến khi mùa vải chín và khi quả hết thì nó bay đi đâu mất.

– Bìm bịp kêu thì chim ác mới ra mặt.

– Diều hâu bắt gà con, chim cắt xỉa chết bồ câu, chèo bẻo đánh bồ câu và chim cắt.

*Kết hợp kể, tả và bình luận:

– Chuyện con sáo đen nhà bác Vui tọ tọe học nói, chuyện kể về sự tích con bìm bịp.

– Nói về nhà họ sáo: chúng đều hiền cả, mang vui đến cho giời đất.

– Nói về chèo bẻo: Chúng nó trị kẻ ác. Thì ra người có tội khi trở thành người tốt thì tốt lắm.

– Nói về chim cắt: Chúng là loài quỷ đen và đến nay chưa có loài chim nào trị được hắn.

c. Nhận xét về tài quan sát và tình cảm của tác giả với thiên nhiên, làng quê qua hình ảnh các loài chim:

Tác giả quan sát rất tỉ mỉ về các loài chim và thể hiện được rất rõ tình cảm yêu mến gắn bó với thiên nhiên làng quê. Đặc biệt, nhà văn vẫn giữ được nét hồn nhiên của tuổi thơ khi kể và tả về thế giới các loài chim ở làng quê.


Câu 3: Những yếu tố văn hóa dân gian:

– Đồng dao: Bồ các là bác chim ri. Chim ri là dì sáo sậu…bồ các.

– Thành ngữ: Dây mơ, rễ má; Kẻ cắp gặp bà già;…

– Truyện cổ tích: Sự tích chim bìm bịp, Sự tích chim chèo bẻo.

Nhận xét: Chất văn hóa dân gian thấm đượm trong cái nhìn và cảm xúc của nhà văn về các loài chim và cuộc sống ở làng quê. Đối với mỗi loài, tác giả lại có cái nhìn khác nhau có thể là thiện cảm hoặc ác cảm, đôi khi gán ghép cho chúng những phẩm chất như con người. Trong những quan niệm dân gian, bên cạnh nét hồn nhiên, chất phác thì còn có những hạn chế mang tính định kiến, thiếu căn cứ khoa học. Chẳng hạn, về sự tích bìm bịp mà cho rằng bìm bịp kêu thì chim ác, chim dữ mới ra mặt.


Câu 4:

Bài văn đã cho em hiểu biết thêm về các loài chim và hoạt động kiếm ăn, cuộc sống thường ngày của chúng. Ngoài ra, bằng tình cảm yêu mến cảnh sắc quê hương, tác giả đã cho chúng ta thấy được bức tranh cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc ở làng quê.

II. LUYỆN TẬP:

Em hãy quan sát và miêu tả một loài chim quen thuộc ở quê em.

Chim họa mi:

– Chiều hôm đó, con chim họa mi từ đâu bay tới đậu ở vườn nhà tôi.

– Nó vui mừng vì hôm nay được tha hồ rong ruổi bay khắp vườn.

– Tiếng hót của chim họa mi êm đềm như một điệu đàn của ai đó đang đánh.

– Sau khi hót say sưa, chim họa mi mệt và hai mắt nhắm lại.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về bài học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *