Luận điểm theo một cách dễ hiểu đó chính là các tư tưởng, quan điểm, lập luận chính của các văn bản nghị luận hoặc vấn đề nghị luận đang được đề cập đến trong … xem thêm…văn bản, đoạn văn hay bài văn nghị luận. Để viết một bài văn, đoạn văn về một vấn đề hay một vấn đề nào đó, thì đầu tiên người viết cần phải biết cách xác định các luận điểm cần nêu trong bài và mỗi quan hệ giữa luận điểm với các vấn đề trong bài văn nghị luận. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn Viết đoạn văn trình bày luận điểm để hiểu rõ bài học và chuẩn bị tốt nhất cho nội dung lên lớp.
Bài soạn “Viết đoạn văn trình bày luận điểm” số 1
I. Trình bày luận điểm thành một đoạn văn nghị luận
Câu chủ đề:
– Đoạn 1: “Thật là chốn hội tụ trọng yếu … đế vương muôn đời” – Câu chủ đề mở đoạn
– Đoạn 2: Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” – Câu chủ đề là câu mở đoạn.
– Đoạn 1 viết theo kiểu quy nạp, đoạn 2 viết theo kiểu diễn dịch.
2. Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lý để tạo ra sức thuyết phục cho bài văn.
a, Luận điểm của đoạn văn: ” Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới phát hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra.
b, Cách lập luận: tác giả sử dụng phép tương phản để làm sáng tỏ cho luận tỏ, chính xác và tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ.
c, Cách sắp xếp hợp lý, nếu tác giả xếp nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay ra với mẹ con chị Dậu lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ… thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì đoạn văn không đúng trình tự trước sau của sự việc, không làm bật được bản chất “chó đểu” của giai cấp nó.
d, Trong đoạn văn, những cụm từ “chuyện chó con”, “giọng chó má”, “thằng nhà giàu rước chó vào nhà”… được xếp cạnh nhau làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ, hấp dẫn, từ đó lộ ra bản chất thú vật của bọn địa chủ.
II. Luyện tập
Bài 1 ( trang 75 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
– Luận điểm: Cần phải tránh lối viết lan man, dài dòng.
– Luận điểm b: Nhà văn Nguyên Hồng thích truyền nghề cho các bạn trẻ.
Bài 2 (trang 76 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
– Luận điểm: Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm.
– Tác giả đã trình bày các luận cứ:
+ Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới gần gũi với mỗi con người.
– Hai luận cứ trên được trình bày theo một trật tự hợp lý. Tác giả xuất phát từ sự thấu hiểu Tế Hanh (tinh tế, có thể nghe những điều không hình sắc, âm thanh).
+ Nhận định cũng rất chính xác về chất thơ Tế Hanh: đưa ta vào thế giới gần gũi mà ta chỉ cảm thấy một cách mờ mờ.
+ Luận cứ thứ hai là hệ quả của luận cứ thứ nhất, điều này tạo được sự logic, hợp lý
Bài 3 (trang 76 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
a, Cho luận điểm: ” Học phải kết hợp với làm bài tập mới hiểu bài”.
– Các luận cứ:
+ Học để nắm bắt tri thức, tuy vậy việc củng cố những tri thức nắm bắt được còn quan trọng hơn.
(Dẫn chứng: Có nhiều người trong học tập thu nạp được nhiều kiến thức nhưng sau một thời gian không thực hành, kiến thức bị mai một, rơi rụng).
+ Làm bài tập sẽ giúp am hiểu hơn về kiến thức.
(Chứng minh: Lý thuyết phải được soi chiếu vào bài tập, từ lý thuyết để tìm ra hướng giải quyết trong bài làm, từ đó kiến thức trở thành có ích).
+ Việc làm bài tập thường xuyên sẽ củng cố tri thức hiệu quả nhất.
(Với những người chăm chỉ làm bài tập, những kiến thức thu nhận được không chỉ củng cố tri thức hiệu quả mà còn được nâng cao, hoàn thiện hơn khi tiếp xúc với thực tế).
b, Luận điểm: ” Học vẹt không phát triển được năng lực tư duy”.
– Giải thích khái niệm: học vẹt.
( Học vẹt chỉ là nói thao thao như vẹt nhưng không hiểu mình nói gì, nhiều người chỉ cố học thuộc lòng nhưng không nắm được bản chất của vấn đề).
– Học vẹt làm cho trí não trở nên lười biếng.
Khi không sử dụng thao tác tư duy, phân tích, giải thích… các kĩ năng thiết yếu của tư duy không được rèn luyện.
Bài 4 (trang 76 sgk Ngữ văn 8 tập 2):
Để làm sáng tỏ luận điểm: ” Văn giải thích cần viết cho dễ hiểu” có thể đưa ra các luận cứ sau:
– Mục đích của văn giải thích là để giải thích cho người đọc hiểu rõ vấn đề nào đó.
– Nếu viết không dễ hiểu, người đọc từ chỗ khó tiếp nhận lời văn lại càng khó để hiểu người viết muốn trình bày.
– Khi viết cần thể hiện rành mạch, giản dị, tránh lối dùng từ cầu kì, có những cấu trúc phức tạp, cản trở quá trình tri nhận.
– Ngoài ra, khi viết phải chú ý tới đối tượng tiếp nhận để sử dụng ngôn ngữ hợp lý và đạt hiệu quả cao.
→ Các luận cứ trên phải được trình bày theo một trình tự hợp lý, từ giải thích khái niệm đến sử dụng biện pháp nêu vấn đề, tiếp đó là đưa ra luận cứ chính.
Bài soạn “Viết đoạn văn trình bày luận điểm” số 2
Phần I: TRÌNH BÀY LUẬN ĐIỂM THÀNH MỘT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN
Trả lời câu 1 (trang 80, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Luận điểm trong các đoạn văn
a. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của 4 phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
b. Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng danh với tổ tiên ta ngày trước.
– Câu chủ đề có thể đặt ở đầu đoạn văn, cũng có thể đặt ở cuối đoạn văn.
– Đoạn a viết theo cách quy nạp.
– Đoạn b viết theo cách diễn dịch.
Trả lời câu 2 (trang 80, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
a. – Luận điểm trong đoạn văn trên là: Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra.
– Cách lập luận trong đoạn văn trên là lập luận theo kiểu dùng phép tương phản.
b. Lập luận theo cách của Ngô Tất Tố tạo cho đoạn văn rất giàu sức thuyết phục
c. Các ý trong đoạn văn rất hấp dẫn.
d. Việc đặt những cụm từ chuyện chó con, giọng chó má, thằng nhà giàu rước chó vào nhà, chất chó đểu của giai cấp nó được xếp cạnh nhau chính là cách thức để Nguyễn Tuân làm cho đoạn văn của mình tập trung vào một ý chung, làm nổi bật bản chất thú vật của bọn địa chủ.
Phần II: LUYỆN TẬP
Trả lời câu 1 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Diễn đạt thành luận điểm ngắn gọn.
a. Trước hết là cần tránh lối viết dài dòng, lan man.
b. Ngoài việc mê viết, Nguyên Hồng còn thích truyền nghề cho bạn trẻ.
Trả lời câu 2 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
– Luận điểm của đoạn văn được nêu ra ngay trong câu mở đầu: “Tôi thấy Tế Hanh là người tinh lắm”. Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã trình bày các luận cứ :
+ Tế Hanh đã ghi được những nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi với mỗi con người.
– Hai luận cứ trên được trình bày theo một trình tự hợp lý.Luận cứ thứ hai là hệ quả từ luận cứ thứ nhất. Điều đó tạo cho đoạn văn sự hợp lý và tính lô-gíc.
Trả lời câu 3 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
a) Cho luận điểm: ” Học phải kết hợp với làm bài tập mới hiểu bài”.
– Các luận cứ:
+ Học để nắm bắt tri thức, tuy vậy việc củng cố những tri thức nắm bắt được còn quan trọng hơn.
(Dẫn chứng: Có nhiều người trong học tập thu nạp được nhiều kiến thức nhưng sau một thời gian không thực hành, kiến thức bị mai một, rơi rụng).
+ Làm bài tập sẽ giúp am hiểu hơn về kiến thức.
(Chứng minh: Lý thuyết phải được soi chiếu vào bài tập, từ lý thuyết để tìm ra hướng giải quyết trong bài làm, từ đó kiến thức trở thành có ích).
+ Việc làm bài tập thường xuyên sẽ củng cố tri thức hiệu quả nhất.
(Với những người chăm chỉ làm bài tập, những kiến thức thu nhận được không chỉ củng cố tri thức hiệu quả mà còn được nâng cao, hoàn thiện hơn khi tiếp xúc với thực tế).
b) Luận điểm: ” Học vẹt không phát triển được năng lực tư duy”.
– Giải thích khái niệm: học vẹt.
(Học vẹt chỉ là nói thao thao như vẹt nhưng không hiểu mình nói gì, nhiều người chỉ cố học thuộc lòng nhưng không nắm được bản chất của vấn đề).
– Học vẹt làm cho trí não trở nên lười biếng.
– Khi không sử dụng thao tác tư duy, phân tích, giải thích… các kĩ năng thiết yếu của tư duy không được rèn luyện.
Trả lời câu 4 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Để làm sáng tỏ luận điểm “Văn giải thích cần phải viết cho dễ hiểu”, có thể đưa ra các luận cứ :
+ Mục đích của văn giải thích là để giải thích cho người đọc hiểu rõ về một vấn đề nào đó.
+ Nếu viết không dễ hiểu, người đọc từ chỗ khó tiếp nhận lời văn lại càng khó có thể hiểu được vấn đề người viết muốn trình bày.
+ Bởi vậy, khi viết cần sử dụng lối viết rành mạch, giản dị, tránh dùng những từ ngữ quá cầu kỳ, những câu có cấu trúc phức tạp, cản trở quá trình tiếp nhận văn bản.
+ Ngoài ra, khi viết cũng cần phải chú ý đến đối tượng tiếp nhận để sử dụng ngôn ngữ phù hợp thì mới đạt được hiệu quả cao.
Bài soạn “Viết đoạn văn trình bày luận điểm” số 3
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Khi trình bày luận điểm trong đoạn văn, bài văn nghị luận, cần chú ý :
1. Nên sử dụng câu chủ đề để thể hiện luận điểm, vì câu chủ đề có một số điểm mạnh :
– Thể hiện được tư tưởng chính của cả đoạn văn.
– Đứng ở vị trí đầu đoạn văn (và đôi khi cuối đoạn) nên thu hút được sự chú ý của người đọc.
– Ngắn gọn, cô đọng nên dễ nhớ, dễ thuộc.
2. Muốn cho luận điểm nổi bật và đạt được tính thuyết phục, cần phải:
– Tìm đủ các luận cứ cho luận điểm.
– Phải tổ chức lập luận theo một trình tự hợp lí.
3. Phải diễn đạt trong sáng, lôi cuốn để sự trình bày được rõ ràng và có sức tác động mạnh tới người đọc, người nghe.
II – HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
Câu 1. Phân tích hai đoạn văn :
– Câu chủ đề :
+ Đoạn 1 : “Thật là chốn tụ hội trọng yếu … đế vương muôn đời”.
+ Đoạn 2 : “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước”.
– Đoạn 1 : câu chủ đề là câu kết đoạn. Đoạn 2 : câu chủ đề là câu mở đoạn.
Câu 2. Đọc và phân tích đoạn văn :
a) Khái niệm lập luận : Lập luận là đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng nhằm dẫn dắt người đọc đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận mà người viết muốn đạt tới.
Trong đoạn văn này, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của đoạn trích trong tác phẩm Tắt đèn, khi Ngô Tất Tố miêu tả thái độ của vợ chồng Nghị Quế lúc chị Dậu mang ổ chó đến bán nhằm làm nổi bật bản chất “chó đểu” của giai cấp thống trị. Đó cũng chính là luận điểm của đoạn văn.
Tác giả đã sử dụng thủ pháp tương phản khi miêu tả hai thái độ hoàn toàn khác nhau của vợ chồng Nghị Quế : đối với đàn chó, hai vợ chồng xoắn xuýt, tỏ ra quan tâm, chiều chuộng bao nhiêu thì đối với mẹ con chị Dậu, chúng lại “đểu giả, chó má” bấy nhiêu. Cách xử sự “đểu giả” (coi chó như người, coi người như chó) của vợ chồng Nghị Quế đã bộc lộ bản chất chung của giai cấp thống trị.
b) Cách lập luận trên của tác giả đã làm nổi bật, sáng tỏ luận điểm chung. Đó là cách lập luận rất độc đáo và giàu ý nghĩa biểu hiện, làm cho luận điểm có sức thuyết phục cao.
c) Tính chất thuyết phục của luận điểm được nâng lên rất nhiều bởi cách sắp xếp các ý của tác giả. Cách đối xử với mẹ con chị Dậu của vợ chồng Nghị Quế thật khác xa những gì mà chúng đã biểu hiện với mấy con chó. Tưởng rằng thích những con chó như vậy, ít ra chúng cũng đối xử với người nuôi chó tử tế, nào ngờ… Nếu tác giả đưa nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu” lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ cũng… thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì tuy cũng tạo ra được sự đối lập nhưng hiệu quả bất ngờ sẽ giảm đi rất nhiều.
d) Cách dùng từ của tác giả cũng đặc biệt sắc sảo. Những cụm từ đầy vẻ gai góc như chuyện chó con, giọng chó má, thằng nhà giàu rước chó vào nhà,… đã tạo nên chất giọng rất riêng, rất ấn tượng, qua đó làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ và hấp dẫn.
III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Các câu văn có thể được viết lại thành luận điểm như sau :
a) Cần phải viết ngắn gọn, rõ ràng.
b) Nguyên Hồng không chỉ đam mê viết mà còn muốn truyền nghề cho các bạn trẻ.
Câu 2. Phân tích đoạn văn của Hoài Thanh :
– Luận điểm của đoạn văn được nêu ra ngay trong câu mở đầu “Tôi thấy Tế Hanh là một người tình lắm”. Để làm sáng tỏ luận điểm này, tác giả đã trình bày các luận cứ :
+ Tế Hanh đã ghi được những nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi với mỗi con người.
– Hai luận cứ trên được trình bày theo một trình tự hợp lí. Tác giả xuất phát từ những nhận định chính xác về Tế Hanh (một người rất tinh tế, có thể nghe thấy những điều không hình sắc, không thanh âm) đến những nhận định cũng rất chính xác về thơ Tế Hanh (đưa ta vào thế giới gần gũi mà ta chỉ cảm thấy một cạch mờ mờ). Luận cứ thứ hai là hệ quả từ luận cứ thứ nhất. Điều đó tạo cho đoạn văn sự hợp lí và tính lô-gíc.
Câu 3. Đối với các luận điểm được nêu ra, cần sử dụng các luận cứ cụ thể, sát hợp.
a) Học phải kết hợp làm bài tập thì mới hiểu bài
Có thể làm sáng tỏ luận điểm trên bằng các luận cứ sau :
– Học là để nắm bắt tri thức. Nắm bắt tri thức rất quan trọng nhưng củng cố những tri thức đã nắm bắt được còn quan trọng hơn.
Có thể lấy các dẫn chứng trong thực tế và trong học tập để chúng minh. Một người khi học lí thuyết có thể đạt kết quả cao nhưng anh ta không chú ý đến việc thực hành. Kết quả là những kiến thức thu nhận được nhanh chóng rơi rụng đi mất khiến cho khi tiếp xúc với công việc thực tế, anh ta đã hết sức vất vả.
– Việc làm bài tập đều đặn, thường xuyên là cách củng cố tri thức hiệu quả nhất.
Chứng minh : Với những người chăm chỉ làm bài tập, những kiến thức họ thu nhận được không những được củng cố mà còn dược nâng cao, hoàn thiện hơn khi được tiếp xúc với thực tế vô cùng phong phú.
b) Học vẹt không phát triển được năng lực suy nghĩ
– Trước hết cần phải giải thích rõ : “Học vẹt” nghĩa là như thế nào ?
“Học vẹt” nghĩa là chỉ nói theo như con vẹt, nói mà không hiểu mình đang nói cái gì. Nhiều người khi học chỉ cố học thuộc lòng, không chú ý đến việc phân tích, khái quát. Kết quả là khi làm bài, anh ta có thể nói rất đúng ý thầy cô, được điểm rất cao nhưng kì thực là không hiểu dược bản chất của vấn đề.
– Học vẹt làm cho trí não trở nên lười biếng.
Do không sử dụng tư duy phân tích, giải thích… nên các kĩ năng này của người học vẹt không được rèn luyện thường xuyên. Kết quả là khi tiếp xúc với thực tế, cần sử dụng các kĩ năng này một cách tích cực, họ đã gặp nhiều khó khăn.
Câu 4. Để làm sáng tỏ luận điểm : “Văn giải thích cần phải viết cho dễ hiểu”, có thể đưa ra các luận cứ:
– Mục đích của văn giải thích là để giải thích cho người đọc hiểu rõ về một vấn đề nào đó.
– Nếu viết không dễ hiểu, người đọc từ chỗ khó tiếp nhận lời văn lại càng khó có thể hiểu được vấn đề người viết muốn trình bày.
– Bởi vậy, khi viết cần sử dụng lối viết rành mạch, giản dị, tránh dùng những từ ngữ quá cầu kì, nhũng câu có cấu trúc phức tạp, cản trở quá trình tiếp nhận văn bản.
– Ngoài ra, khi viết cũng cần phải chú ý đến đối tượng tiếp nhận để sử dụng ngôn ngữ phù hợp thì mới đạt được hiệu quả cao.
Các luận cứ trên cần phải được trình bày theo một trình tự hợp lí. Từ giải thích khái niệm đến sử dụng thủ pháp nêu vấn đề, tiếp đó là đưa ra luận cứ chính, cuối cùng có thể sử dụng một luận cứ bổ sung để hoàn thiện luận điểm trên.
Bài soạn “Viết đoạn văn trình bày luận điểm” số 4
A. Kiến thức trọng tâm
Trình bày luận điểm thành một đoạn văn nghị luận
Câu 1. Đọc các đoạn văn sau và trả lời câu hỏi: (Theo dõi đoạn văn trong sgk)
Câu hỏi:
Đâu là những câu chủ đề (câu nêu luận điểm) trong mỗi đoạn văn?
Câu chủ đề trong từng đoạn văn được đặt ở vị trí nào (đầu hay cuối đoạn)?
Trong hai đoạn văn trên, đoạn nào được viết theo cách diễn dịch và đoạn nào được viết theo cách quy nạo? Phân tích cách diễn dịch và quy nạp trong mỗi đoạn văn?
Trả lời:
Câu chủ đề trong hai đoạn văn:
(a): Thật là chống tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
(b): Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước
Câu chủ đề của đoạn (a) ở cuối còn đoạn (b) ở đầu đoạn văn
Đoạn văn (a) viêt theo lối quy nạp; đoạn văn (b) viết theo lối diễn dịch
Câu 2. Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi (theo dõi đoạn văn trong sgk)
Câu hỏi:
a) Hãy xem lại Ngữ văn 7, tập hai và cho biết: Lập luận là gì? Tìm hiểu luận điểm và cách lập luận trong đoạn văn trên. (Gợi ý: Có phải nhà văn dùng phép tương phản hay không?)
b) Cách lập luận trong đoạn văn trên có làm cho luận điểm trở nên sáng tỏ, chính xác và có sức thuyết phục mạnh mẽ hay không?
c) Em có nhận xét gì về việc sắp xếp các ý trong đoạn văn vừa dẫn? Nếu tác giả nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu” lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ cũng…thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì hiệu quả của đoạn văn sẽ bị ảnh hưởng thế nào?
d) Trong đoạn văn, những cụm từ chó con, giọng chó má, thằng nhà giàu rước chó vào nhà, chất chó đểu của giai cấp nó được xếp cạnh nha. Cách viết ấy có làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ và hấp dẫn không? Vì sao?
Trả lời:
a)
Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm.
Luận điểm trong đoạn trích: Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đều của giai cấp nó ra.
Tác giả đã sử dụng phép lập luận tương phản đối lập giữa hành động, cử chỉm giọng điệu của Nghị Quế với đàn chó con và với mẹ con chị Dậu
b) Việc dùng phép lập luận tương phản, đối lập khiến cho hình ảnh nhân vật Nghị Quế hiện lên với bản chất khốn nạn, dối trá, làm cho luận điểm trở nên sáng tỏ và tăng sức thuyết phục cho đoạn trích.
c) Việc sắp xếp trình tự các ý trong đoạn văn là hợp lí. Nếu đảo vị trí của các ý thì sẽ làm giảm giá trị tố cáo, sức thuyết phục của văn bản với người đọc. Bởi bản chất thật của Nghị Quế phải được vạch trần sau khi xây dựng cho người đọc cảm nhận hắn là một một con người có vẻ yêu gia súc, thích chó, chắc cũng sẽ đối xử tử tế với con người. Hoặc tác giả muốn xoáy sâu thêm giá trị của con người trong xã hội ấy, không bằng con chó của nhà giàu.
d) Việc sử dụng các cụm từ như trên đã tạo ra một liên tưởng và hấp dẫn đối với người đọc, khiến cho đoạn trích có sức thuyết phục hơn.
Ghi nhớ:
Khi trình bày luận điểm trong đoạn văn nghị luận, cần chú ý:
Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm trong câu chủ đề. Trong đoạn văn trình bày luận điểm, câu chủ để thường được đặt ở đầu tiên (đối với đoạn diễn dịch) hoặc cuối cùng (đối với đoạn quy nạp)
Tìm đủ các luận cứ cần thiết, tổ chức lập luận theo một trật tự hợp lí để làm nổi bật luận điểm.
Diễn đạt trong sáng, hấp dẫn để sự trình bày luận điểm có sức thuyết phục.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Luyện tập
Bài tập 1: Trang 81 sgk Ngữ Văn 8 tập hai
Đọc hai câu văn sau và diễn đạt ý mỗi câu thành một luận điểm ngắn gọn, rõ.
a) Trước hết là cần phải tránh cái lối viết “rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải”, làm cho người xem như là “chắt chắt vào rừng xanh”
(Hồ Chí Minh, Cách viết)
b) Ngoài việc đam mê viết, cái thích thứ hai của Nguyên Hồng là được truyền nghề cho bạn trẻ.
(Nguyễn Tuân)
Bài làm:
a) Luận điểm: Tranh viết lan man, dài dòng.
b) Luận điểm: Nguyên Hồng thích được truyền nghề cho giới trẻ.
Bài tập 2: trang 82 sgk Ngữ Văn 8 tập hai
Đọc văn sau đây trình bày luận điểm gì và sử dụng các luận cứ nào? Hãy nhận xét về cách sắp xếp luận cứ và cách diễn đạt của văn bản.
Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh như “mảnh hồn làng” trên “cánh buồm giương”, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới với những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt, say sưa của con thuyền lúc trở về bến, nỗi khổ đau chất chứa trên toa tàu nặng trĩu, nhưng vui buồn sầu tủi của một con đường
(Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)
Bài làm:
Luận điểm của đoạn văn: Tế Hanh là một người tinh lắm
Hệ thống luận cứ của Nguyễn Tuân
Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương
Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi
Luận cứ được Nguyễn Tuân đưa ra và sắp xếp rất logic, hợp lí: Luận cứ thứ nhất là tiền đề cho luận cứ thứ hai, đó là từ việc nhận xét về bức tranh sinh hoạt quê hương đến thế giới gần gũi, thân thuộc với con người, đi từ cái nhỏ đến cái lớn, xa hơn, bao quát, rộng lớn hơn.
Bài tập 3: trang 82 sgk Ngữ Văn 8 tập hai
Viết các đoạn văn ngắn khai triển các luận điểm sau
a) Học phải kết hợp làm bài tập thì mới hiểu bài
b) Hoc vẹt không phát triển được năng lực suy nghĩ
Bài làm:
Đoạn văn 1:
“Trăm hay không bằng tay quen” là câu nói khẳng định một quy luật của cuộc sống, làm nhiều sẽ thuần thục, quen tay sẽ làm hay, làm đẹp. Trong học tập cũng vậy, học phải kết hợp làm bài tập thì mới hiểu bài. Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, người khác để biến tri thức đó thành của mình. Thế nhưng, cái chúng ta học được từ sách vở, trên trường lớp chỉ là ý thuyết, nếu không thực hành thì lý thuyết ấy cũng không có giá trị. Việc làm bài tập sẽ giúp ta khắc sâu được phần lý thuyết vừa học trên trường. Đơn giản như làm một bài toán với một công thức, nếu ta làm mười lần,hai mươi lần thì công thức ấy tự nhiên sẽ được bộ não của ta ghi nhớ, có thể sẽ không bao giờ quên. Nếu không làm bài tập, ta sẽ quên công thức ấy ngay sau 3-5 ngày học. Không chỉ thế, làm bài tập sẽ giúp ta hiểu sâu hơn kiến thức và lấy nó làm nền tảng để mở rộng kiến thức ấy. Khi học về tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố, ta sẽ thấy được khung cảnh của nông thôn Việt Nam vào mùa thúc sưu thuế. Vận dụng các kiến thức Văn học để so sánh và đối chiếu, ta sẽ thấy được chị Dậu, Lão Hạc, Chí Phèo, dì Hảo, anh Pha…trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao hay Nguyễn Công Hoan đều là số phận cơ cực của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Đoạn văn 2:
Bản chất của việc học là tiếp thu tri thức, học để hiểu biết, học để làm người. Thế nhưng học vẹt lại là hình thức học đối phó, học thuộc lòng, lặp đi lặp lại kiến thức một cách máy móc. Những người học vẹt không học vì kiến thức mà chỉ học vì điểm số, vì các bài kiểm tra. Hậu quả là khi đã học vét, ta sẽ không hiểu được bản chất của vấn đề, có khi kiến thức sai chính ta cũng không nhận ra được. Lâu dẫn con người sẽ bị trì trệ, bộ não không chịu hoạt động, suy nghĩ khiến ta trở nên lười biếng, chây lì, chậm chạp. Có thể nói, học vẹt không thể phát triển được năng lực suy nghĩ của con người.
Bài tập 4: Trang 82 sgk Ngữ văn 8 tập hai
Để làm sáng tỏ luận điểm “Văn giải thích cần viết cho dễ hiểu”, em sẽ đưa ra những luận cứ nào? Những luận cứ ấy cần được sắp xếp theo một trình tự như thế nào để tăng hiệu quả thuyết phục của đoạn văn?
Có thể tham khảo trình tự sắp xếp luận cứ trong đoạn văn sau:
Mình viết ra cốt là để giáo dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được, thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều
(Hồ Chí Minh, Cách viết)
Bài làm:
Các luận cứ có thể đưa ra và sắp xếp theo trình tự:
Mục đích của văn giải thích là làm cho người đọc, người nghe hiểu rõ về một vấn đề, đối tượng
Nếu viết không dễ hiểu, người đọc rất khó tiếp nhận, không hiểu rõ về vân đề
Cần viết rõ ràng, ngắn gọn, súc tích và xác định rõ đối tượng mình hướng tới là ai
Bài soạn “Viết đoạn văn trình bày luận điểm” số 5
Câu 1 – Trang 79 SGK
Đọc các đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
a) Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
(Lí Công Uẩn, Chiếu dời đô)
b) Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ,… Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.
(Hồ Chí Minh, Tinh thần yêu nước của nhân dân ta)
– Xác định câu chủ đề (câu nêu luận điểm) trong mỗi đoạn văn.
– Câu chủ đề trong từng đoạn được đặt ở vị trí nào (đầu hay cuối đoạn)?
– Trong hai đoạn văn trên, đoạn nào được viết theo cách diễn dịch và đoạn nào được viết theo cách quy nạp? Phân tích cách diễn dịch và quy nạp trong đoạn văn.
Trả lời
– Câu chủ đề trong từng đoạn:
(a) Thật là chốn tụ hội trọng yếu của 4 phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
(b) Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước.
– Câu chủ đề có thể đặt ở đầu đoạn văn cũng có thể đặt ở cuối đoạn văn
– Đoạn a) Viết theo cách quy nạp (câu chủ đề nằm ở cuối đoạn, tóm lại ý của toàn đoạn)
– Đoạn b) Viết theo cách diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu đoạn, các câu sau triển khai tiếp ý câu chủ đề).
Câu 2 – Trang 80 SGK
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ Nghị Quế, Ngô Tất Tố cho bưng vào đấy một cái rổ nhún nhín bốn chó con. […] Quái thay là Ngô Tất Tố. Mới xem, ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ là như mọi người khác thích chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương cũng không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm, ôn tồn hỏi về chó, rồi xem tướng chó. Hắn sung sướng. Vợ hắn và hắn bù khú […] với nhau trên câu chuyện chó con. Ấy thế rồi là đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra.
(Nguyễn Tuân, Truyện “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố)
a) Hãy xem Ngữ văn 7, tập hai và cho biết: Lập luận là gì? Tìm luận điểm và cách lập luận trong đoạn văn trên. (Gợi ý: Có phải nhà văn dùng phép tương phản hay không?)
b) Cách lập luận trong đoạn văn trên có làm cho luận điểm trở nên sáng tỏ, chính xác và có sức thuyết phục mạnh mẽ không?
c) Em có nhận xét gì về việc sắp xếp các ý trong đoạn văn vừa dẫn? Nếu tác giả sắp xếp nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu” lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ cũng… thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì hiệu quả lập luận của đoạn văn sẽ bị ảnh hưởng thế nào?
d) Trong đoạn văn, những cụm từ chuyện chó con, giọng chó má, thằng nhà giàu rước chó vào nhà, chất chó đểu của giai cấp nó được xếp cạnh nhau. Cách viết ấy có làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ và hấp dẫn không? Vì sao?
Trả lời
Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lý để tạo ra sức thuyết phục cho bài văn.
a, Luận điểm của đoạn văn: ” Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới phát hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra.
b, Cách lập luận: tác giả sử dụng phép tương phản để làm sáng tỏ cho luận tỏ, chính xác và tạo ra sức thuyết phục mạnh mẽ.
c, Cách sắp xếp hợp lý, nếu tác giả xếp nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay ra với mẹ con chị Dậu lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ… thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì đoạn văn không đúng trình tự trước sau của sự việc, không làm bật được bản chất “chó đểu” của giai cấp nó.
d, Trong đoạn văn, những cụm từ “chuyện chó con”, “giọng chó má”, “thằng nhà giàu rước chó vào nhà”… được xếp cạnh nhau làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ, hấp dẫn, từ đó lộ ra bản chất thú vật của bọn địa chủ.
Luyện tập
Câu 1 – Trang 81 SGK
Đọc hai câu văn sau và diễn đạt ý mỗi câu thành một luận điểm ngắn, gọn, rõ.
a) Trước hết là cần phải tránh cái lối viết “rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải”, làm cho người xem như là “chắt chắt vào rừng xanh”
(Hồ Chí Minh, Cách viết)
b) Ngoài việc đam mê viết, cái thích thứ hai của Nguyên Hồng là được truyền nghề cho bạn trẻ.
(Nguyễn Tuân)
Trả lời
– Luận điểm a: Cần phải tránh lối viết lan man, dài dòng.
– Luận điểm b: Nhà văn Nguyên Hồng thích truyền nghề cho các bạn trẻ.
Câu 2 – Trang 81 SGK
Đoạn văn sau đây trình bày luận điểm gì và sử dụng các luận cứ nào? Hãy nhận xét về cách sắp xếp luận cứ và cách diễn đạt của đoạn văn.
Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không thanh âm như “mảnh hồn làng” trên “cành buồm giương”, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ra vào một thế giới rất gầngũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bên, nỗi khổ đau chất chứa trên toa tàu nặng trĩu, những vui buồn sầu tủi của một con đường.
(Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)
Trả lời
– Luận điểm: Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm.
– Tác giả đã trình bày các luận cứ:
+ Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới gần gũi với mỗi con người.
– Hai luận cứ trên được trình bày theo một trật tự hợp lý. Tác giả xuất phát từ sự thấu hiểu Tế Hanh (tinh tế, có thể nghe những điều không hình sắc, âm thanh).
+ Nhận định cũng rất chính xác về chất thơ Tế Hanh: đưa ta vào thế giới gần gũi mà ta chỉ cảm thấy một cách mờ mờ.
+ Luận cứ thứ hai là hệ quả của luận cứ thứ nhất, điều này tạo được sự logic, hợp lý
Câu 3 – Trang 81 SGK
Viết các đoạn văn ngắn triển khai ý các luận điểm sau:
a) Học phải kết hợp làm bài tập thì mới hiểu bài.
b) Học vẹt không phát triển được năng lực suy nghĩ.
Trả lời
a, Cho luận điểm: “Học phải kết hợp với làm bài tập mới hiểu bài”.
– Các luận cứ:
▪ Học để nắm bắt tri thức, tuy vậy việc củng cố những tri thức nắm bắt được còn quan trọng hơn.
(Dẫn chứng: Có nhiều người trong học tập thu nạp được nhiều kiến thức nhưng sau một thời gian không thực hành, kiến thức bị mai một, rơi rụng).
▪ Làm bài tập sẽ giúp am hiểu hơn về kiến thức.
(Chứng minh: Lý thuyết phải được soi chiếu vào bài tập, từ lý thuyết để tìm ra hướng giải quyết trong bài làm, từ đó kiến thức trở thành có ích).
▪ Việc làm bài tập thường xuyên sẽ củng cố tri thức hiệu quả nhất.
(Với những người chăm chỉ làm bài tập, những kiến thức thu nhận được không chỉ củng cố tri thức hiệu quả mà còn được nâng cao, hoàn thiện hơn khi tiếp xúc với thực tế).
Đoạn văn tham khảo:
Học là để nắm bắt tri thức nhưng việc cũng cố tri thức ấy còn quan trọng hơn. Nếu học lí thuyết mà không chú ý đến việc làm bài tập thì tri thức cũng sẽ sớm rơi rụng đi. Làm bài tập chính là thực hành bài học lí thuyết. Nó làm cho kiến thức lí thuyết được nhận thức lại sâu hơn, bản chất hơn. Làm bài tập giúp cho việc nhớ kiến thức dễ dàng hơn. Làm bài tập là rèn luyện các kỹ năng của tư duy, đặc biệt là kỹ năng phân tích, tổng hợp, so sánh, chứng minh, tính toán. Vì vậy nhất thiết học phải kết hợp với làm bài tập thì sự học mới đầy đủ và vững chắc.
b, Luận điểm: “Học vẹt không phát triển được năng lực tư duy”.
– Giải thích khái niệm: học vẹt.
( Học vẹt chỉ là nói thao thao như vẹt nhưng không hiểu mình nói gì, nhiều người chỉ cố học thuộc lòng nhưng không nắm được bản chất của vấn đề).
– Học vẹt làm cho trí não trở nên lười biếng.
Khi không sử dụng thao tác tư duy, phân tích, giải thích… các kĩ năng thiết yếu của tư duy không được rèn luyện.
Đoạn văn tham khảo:
Học vẹt không phát triển được năng lực suy nghĩ. Trước hết ta cần hiểu học vẹt là học thuộc lòng, có khi không cần hiểu, hoặc hiểu lơ mơ, nói mà không hiểu mình đang nói cái gì ( như con vẹt bắt chước nói tiếng người). Nếu chúng ta học mà không hiểu thì sẽ chóng quên và khó có thể vận dụng thành công những điều đã học trong thực tế. Hơn nữa, học vẹt chỉ mất thời gian, công sức mà chẳng đem lại hiệu quả gì thiết thực. Ngược lại, học vẹt còn làm cùn mòn đi năng lực tư duy, suy nghĩ. Bởi vậy, không thể theo cách học vẹt. Học bao giờ cũng trên cơ sở hiểu, gắn với nhận thức đúng về sự vật, vấn đề.
Câu 4 – Trang 82 SGK
Để làm sáng tỏ luận điểm “Văn giải thích cần phải viết cho dễ hiểu, em sẽ đưa ra những luận cứ nào? Những luận cứ ấy cần được sắp xếp theo một trình tự như thế nào để tăng hiệu quả thuyết phục của đoạn văn?
Trả lời
Để làm sáng tỏ luận điểm: ” Văn giải thích cần viết cho dễ hiểu” có thể đưa ra các luận cứ sau:
– Mục đích của văn giải thích là để giải thích cho người đọc hiểu rõ vấn đề nào đó.
– Nếu viết không dễ hiểu, người đọc từ chỗ khó tiếp nhận lời văn lại càng khó để hiểu người viết muốn trình bày.
– Khi viết cần thể hiện rành mạch, giản dị, tránh lối dùng từ cầu kì, có những cấu trúc phức tạp, cản trở quá trình tri nhận.
– Ngoài ra, khi viết phải chú ý tới đối tượng tiếp nhận để sử dụng ngôn ngữ hợp lý và đạt hiệu quả cao.
→ Các luận cứ trên phải được trình bày theo một trình tự hợp lý, từ giải thích khái niệm đến sử dụng biện pháp nêu vấn đề, tiếp đó là đưa ra luận cứ chính.
Ghi nhớ
Khi trình bày luận điểm trong đoạn văn nghị luận, cần chú ý:
– Thể hiện rõ ràng, chính xác nội dung của luận điểm trong câu chủ đề. Trong đoạn văn trình bày luận điểm, câu chủ đề thường được đặt ở vị trí đầu tiên (đối với đoạn diễn dịch) hoặc cuối cùng (đối với đoạn quy nạp).
– Tìm đủ các luận cứ cần thiết, tổ chức lập luận theo một trình tự hợp lí để làm nổi bật luận điểm.
– Diễn đạt trong sáng, hấp dẫn để sự trình bày luận điểm có sức thuyết phục.
Bài soạn “Viết đoạn văn trình bày luận điểm” số 6
Phần I: TRÌNH BÀY LUẬN ĐIỂM THÀNH MỘT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN
Câu 1. (trang 80, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Đọc các đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
a) Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
(Lí Công Uẩn, Chiếu dời đô)
b) Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngoài mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc, đến những công chức ở hậu phương nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến, cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ,… Những cử chỉ cao quý đó, tuy khác nhau nơi việc làm, nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước.
(Hồ Chí Minh, Tinh thần yêu nước của nhân dân ta)
– Xác định câu chủ đề (câu nêu luận điểm) trong mỗi đoạn văn.
– Câu chủ đề trong từng đoạn được đặt ở vị trí nào (đầu hay cuối đoạn)?
– Trong hai đoạn văn trên, đoạn nào được viết theo cách diễn dịch và đoạn nào được viết theo cách quy nạp? Phân tích cách diễn dịch và quy nạp trong đoạn văn.
Trả lời:
– Câu chủ đề trong từng đoạn:
(a) Thật là chốn tụ hội trọng yếu của 4 phương đất nước, cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
(b) Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước.
– Câu chủ đề có thể đặt ở đầu đoạn văn cũng có thể đặt ở cuối đoạn văn
– Đoạn a) Viết theo cách quy nạp (câu chủ đề nằm ở cuối đoạn, tóm lại ý của toàn đoạn)
– Đoạn b) Viết theo cách diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu đoạn, các câu sau triển khai tiếp ý câu chủ đề).
Câu 2. (trang 80, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi.
Ở màn đầu chương XIII, cảnh nhà vợ chồng địa chủ Nghị Quế, Ngô Tất Tố cho bưng vào đấy một cái rổ nhún nhín bốn chó con. […] Quái thay là Ngô Tất Tố. Mới xem, ai cũng thấy vợ chồng địa chủ cũng chỉ là như mọi người khác thích chó, yêu gia súc, tưởng người lành hoặc kẻ bất lương cũng không khác nhau gì lắm trong việc nuôi chó con. Thằng chồng le te cho chó ăn cơm, ôn tồn hỏi về chó, rồi xem tướng chó. Hắn sung sướng. Vợ hắn và hắn bù khú […] với nhau trên câu chuyện chó con. Ấy thế rồi là đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu đứng đấy. Đoạn này, khá lắm, bác Tố ạ! Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra.
(Nguyễn Tuân, Truyện “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố)
a) Hãy xem Ngữ văn 7, tập hai và cho biết: Lập luận là gì? Tìm luận điểm và cách lập luận trong đoạn văn trên. (Gợi ý: Có phải nhà văn dùng phép tương phản hay không?)
b) Cách lập luận trong đoạn văn trên có làm cho luận điểm trở nên sáng tỏ, chính xác và có sức thuyết phục mạnh mẽ không?
c) Em có nhận xét gì về việc sắp xếp các ý trong đoạn văn vừa dẫn? Nếu tác giả sắp xếp nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu” lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ cũng… thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì hiệu quả lập luận của đoạn văn sẽ bị ảnh hưởng thế nào?
d) Trong đoạn văn, những cụm từ chuyện chó con, giọng chó má, thằng nhà giàu rước chó vào nhà, chất chó đểu của giai cấp nó được xếp cạnh nhau. Cách viết ấy có làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ và hấp dẫn không? Vì sao?
Trả lời:
a)
– Lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lý thì bài văn mới có sức thuyết phục.
– Luận điểm trong đoạn văn: “Cho thằng nhà giàu rước chó vào nhà, nó mới càng hiện chất chó đểu của giai cấp nó ra”
– Cách lập luận: tác giả đã dùng phép tương phản
b) Cách lập luận trong đoạn văn đã làm cho luận điểm trở nên sáng tỏ, chính xác và có sức thuyết phục mạnh mẽ.
c) Cách sắp xếp ý trong đoạn văn hợp lý. Nếu tác giả xếp nhận xét Nghị Quế “đùng đùng giở giọng chó má ngay với mẹ con chị Dậu” lên trên và đưa nhận xét “vợ chồng địa chủ cũng… thích chó, yêu gia súc” xuống dưới thì hiệu quả của đoạn văn sẽ không đúng trình tự trước sau của bản thân sự việc là làm nổi bật luận điểm “chất chó đểu của giai cấp nó”.
d) Trong đoạn văn, những cụm từ “chuyện chó con”, “giọng chó má”, “thằng nhà giàu rước chó vào nhà”, “chất chó đểu của giai cấp nó” được xếp cạnh nhau làm cho sự trình bày luận điểm thêm chặt chẽ và hấp dẫn vì vừa xoay vào một ý tứ chung, vừa khiến bản chất thú vật của bọn địa chủ hiện ra thành hình ảnh rõ ràng, lí thú.
Phần II: LUYỆN TẬP
Câu 1. (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Đọc hai câu văn sau và diễn đạt ý mỗi câu thành một luận điểm ngắn, gọn, rõ.
a) Trước hết là cần phải tránh cái lối viết “rau muống” nghĩa là lằng nhằng “trường giang đại hải”, làm cho người xem như là “chắt chắt vào rừng xanh”
(Hồ Chí Minh, Cách viết)
b) Ngoài việc đam mê viết, cái thích thứ hai của Nguyên Hồng là được truyền nghề cho bạn trẻ
(Nguyễn Tuân)
Trả lời:
Diễn đạt thành luận điểm ngắn gọn:
a) Trước hết là cần tránh lối viết dài dòng, lan man
b) Ngoài việc đam mê viết. Nguyên Hồng còn thích truyền nghề cho bạn trẻ
Câu 2. (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Đoạn văn sau đây trình bày luận điểm gì và sử dụng các luận cứ nào? Hãy nhận xét về cách sắp xếp luận cứ và cách diễn đạt của đoạn văn.
Tôi thấy Tế Hanh là một người tinh lắm. Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không thanh âm như “mảnh hồn làng” trên “cành buồm giương”, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ra vào một thế giới rất gần gũi thường ta chỉ thấy một cách mờ mờ, cái thế giới những tình cảm ta đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mỏi mệt say sưa của con thuyền lúc trở về bên, nỗi khổ đau chất chứa trên toa tàu nặng trĩu, những vui buồn sầu tủi của một con đường.
(Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam)
Trả lời:
– Luận điểm “Tế Hanh là một người tinh lắm”
– Luận điểm ấy gồm 2 luận cứ
+ Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương.
+ Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới gần gũi với mỗi con người.
Các luận cứ đó được xếp đặt theo trình tự tăng tiến, luận cứ sau biểu hiện một mức độ tinh tế cao hơn so với luận cứ đầu. Nhờ đó người đọc có được hứng thú tăng thêm.
Câu 3. (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Viết các đoạn văn ngắn triển khai ý các luận điểm sau:
a) Học phải kết hợp làm bài tập thì mới hiểu bài.
b) Học vẹt không phát triển được năng lực suy nghĩ.
Trả lời:
a, Cho luận điểm: ” Học phải kết hợp với làm bài tập mới hiểu bài”.
– Các luận cứ:
+ Học để nắm bắt tri thức, tuy vậy việc củng cố những tri thức nắm bắt được còn quan trọng hơn.
(Dẫn chứng: Có nhiều người trong học tập thu nạp được nhiều kiến thức nhưng sau một thời gian không thực hành, kiến thức bị mai một, rơi rụng).
+ Làm bài tập sẽ giúp am hiểu hơn về kiến thức.
(Chứng minh: Lý thuyết phải được soi chiếu vào bài tập, từ lý thuyết để tìm ra hướng giải quyết trong bài làm, từ đó kiến thức trở thành có ích).
+ Việc làm bài tập thường xuyên sẽ củng cố tri thức hiệu quả nhất.
(Với những người chăm chỉ làm bài tập, những kiến thức thu nhận được không chỉ củng cố tri thức hiệu quả mà còn được nâng cao, hoàn thiện hơn khi tiếp xúc với thực tế).
b, Luận điểm: ” Học vẹt không phát triển được năng lực tư duy”.
– Giải thích khái niệm: học vẹt.
(Học vẹt chỉ là nói thao thao như vẹt nhưng không hiểu mình nói gì, nhiều người chỉ cố học thuộc lòng nhưng không nắm được bản chất của vấn đề).
– Học vẹt làm cho trí não trở nên lười biếng.
Khi không sử dụng thao tác tư duy, phân tích, giải thích… các kĩ năng thiết yếu của tư duy không được rèn luyện.
Câu 4. (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 2)
Để làm sáng tỏ luận điểm “Văn giải thích cần phải viết cho dễ hiểu, em sẽ đưa ra những luận cứ nào? Những luận cứ ấy cần được sắp xếp theo một trình tự như thế nào để tăng hiệu quả thuyết phục của đoạn văn?
Trả lời:
Các luận cứ của luận điểm ấy có thể được sắp xếp như sau:
– Văn giải thích được viết ra nhàm làm cho ngưòi đọc hiểu.
– Giải thích càng khó hiểu thì người viết càng khó đạt được mục đích.
– Ngược lại, giải thích càng dễ hiểu thì người đọc càng dễ lĩnh hội, dễ nhớ, dễ làm theo.
Vì thế, văn giải thích không thể không viết cho dễ hiểu.
Hi vọng bài viết trên giúp các bạn chuẩn bị tốt kiến thức về tiết học trước khi đến lớp. Chúc các bạn học tốt và tiếp tục theo dõi các bài soạn văn cũng như phân tích, phát biểu cảm nghĩ trên Blogthoca.edu.vn.vn.