Nghị luận về một tác phẩm văn học hoặc một tác phẩm nghệ thuật là kiểu bài nghị luận dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung và những nét đặc sắc … xem thêm…về nghệ thuật của tác phẩm (truyện thơ hoặc bài hát) đó. Bài viết thể hiện giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của truyện thơ hay bài hát.
Bài tham khảo số 1
Có vô vàn những bức tượng nổi tiếng và kì vĩ trên thế giới. Ở Việt Nam cũng có một bức tượng đồ sộ, mang đầy ý nghĩa nhân văn. Đó chính là tượng đài mẹ Thứ nằm ở Thành phố Tam Kì, tỉnh Quảng Nam.
Mẹ Thứ tên thật là Nguyễn Thị Thứ. Mẹ có 12 người con, 11 trai và 1 gái. Trong hai cuộc kháng chiến khốc liệt của nhân dân ta, mẹ đã lần lượt tiễn những người con của mình đi chiến đấu bảo vệ đất nước. Trong số đó, có 9 người con trai đã không bao giờ trở về nữa. Không chỉ hi sinh những đứa con cho Tổ quốc mà trong chiến tranh, mẹ luôn bám trụ cùng xóm làng, vừa sản xuất, vừa nuôi giấu cán bộ. Vườn nhà mẹ có đến 5 căn hầm bí mật. Hàng trăm người chiến sĩ đã được gia đình mẹ chăm sóc, che chở trong những năm đó. Vì những đóng góp quá đỗi lớn lao của mình, mẹ đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”.
Năm 2010, mẹ Thứ mất, Nhà nước quyết định cho xây dựng quần thể tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng để tri ân mẹ Thứ nói riêng và những người mẹ khác nói chung. Công trình này được xây dựng trên một vùng đất có quy mô lên khoảng 15ha, khối tượng tạc chân dung mẹ Thứ cao lên đến 18,5m, được làm bằng đá sa thạch. Hai bên tượng chính của mẹ là những khối tượng khác tạc hình mặt người bằng đá hoa cương. Tổng bức tượng hình cánh cung này chạy dài khoảng 120m Đây thực sự là một bức tượng đài to lớn, kì vĩ như chính những công ơn to lớn của mẹ dành cho Đất nước.
Chân dung mẹ Thứ được khắc họa với đôi mắt hiền từ, đôi môi móm mém do tuổi già. Những nếp nhăn trên trán, nơi khóe mắt, khuôn miệng cũng được tạc vô cùng tỉ mỉ. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật hiền dịu nhưng cũng rất kiên cường mạnh mẽ. Xung quanh mẹ là những gương mặt khác không rõ tên tuổi giới tính. Đó có thể là đại diện cho những người con của mẹ, cũng có thể đại diện cho những gương mặt mẹ Việt Nam khác.
Không chỉ là một địa điểm du lịch nổi tiếng, bức tượng đài mẹ Thứ còn là một công trình tri ân đầy ý nghĩa. Bức tượng vừa dành tặng cho thế hệ đi trước, vừa để nhắc nhở con cháu sau này không được quên những công lao, đóng góp to lớn mà thầm lặng của những người mẹ Việt Nam anh hùng.
Bài tham khảo số 2
So sánh về tuổi đời, điện ảnh thuộc lớp những ngành nghệ thuật còn non trẻ ở Việt Nam. Thế nhưng, không vì thế mà điện ảnh ít được đón nhận. Bộ phim “Mùi cỏ cháy” chính là một minh chứng cho sức hấp dẫn của phim điện ảnh chất lượng tại Việt Nam.
“Mùi cỏ cháy” được công chiếu vào năm 2012. Sức hấp dẫn của bộ phim được thể hiện trên nhiều khía cạnh, đầu tiên là về mặt đề tài. Đề tài chiến tranh không phải là đề tài mới mẻ, xa lạ với các sáng tạo nghệ thuật. Có biết bao những tác phẩm văn chương, âm nhạc, nhiếp ảnh về đề tài này đã trở nên nổi tiếng và đi vào đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Thế nhưng, người dân nước ta khi ấy vẫn còn ít tiếp xúc với điện ảnh. Việc khai thác một đề tài kinh điển bằng chất liệu mới đã thu hút được sự chú ý và khơi gợi sự trân trọng ở công chúng. Không chỉ vậy, chính tên tuổi biên kịch cùng nguyên tác, đơn vị sản xuất cũng là yếu tố góp phần gây tiếng vang cho tác phẩm. Kịch bản của bộ phim được viết bởi nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm – một nhà thơ và cũng là một người chiến sĩ từng từ giã mái trường để lên đường chống Mỹ. Xúc động hơn, tác phẩm được dựa trên cuốn nhật kí bất hủ “Mãi mãi tuổi hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Đơn vị sản xuất là Hãng phim truyện Việt Nam. Chỉ từng ấy yếu tố thôi, “Mùi cỏ cháy” đã hứa hẹn là tác phẩm lấy đi nhiều nước mắt của khán giả khi tái hiện những năm kháng chiến hào hùng của đất nước cùng vẻ đẹp con người Việt Nam giữa lửa đạn chiến tranh.
Nếu những yếu tố trên thu hút công chúng đến với phòng vé thì chính nội dung hấp dẫn, chân thực và cảm động đã khiến “Mùi cỏ cháy” có sức sống lâu bền. Từ Hà Nội cổ kính rêu phong đến Quảng Trị kiên cường máu lửa, tất cả đều hiện lên vô cùng sống động. Nhân vật chính của tác phẩm là những chàng sinh viên đang độ tuổi đôi mươi, quyết tâm gác lại việc học để lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Bốn chàng trai Hoàng, Thành, Thăng, Long mang trong mình bầu nhiệt huyết tuổi trẻ, tâm hồn ngây thơ trong sáng, sự tinh nghịch lạc quan, khát khao hạnh phúc và trên hết và tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm, tinh thần quyết tâm xả thân vì độc lập tự do của dân tộc. Những sự kiện, địa danh trong phim như 81 ngày đêm khốc liệt tại Thành cổ, dòng sông Thạch Hãn, những đợt ném bom của Mĩ,… đều là những điều có thật. Hơn hết, “Mùi cỏ cháy” không dừng lại ở mức tái hiện khô cứng hiện thực lịch sử. Tác phẩm không khoác lên chiến tranh bộ chiến bào lấp lánh, oai hùng mà khắc họa tận cùng những mất mát, đau thương của con người. Ta tìm thấy trong tác phẩm nỗi buồn khi rời xa gia đình, sự đau xót khi chứng kiến đồng đội lần lượt hi sinh của những người lính kiên cường hơn sắt thép. Ngày ra đi, bốn chàng trai cùng nhau chụp một tấm ảnh hẹn ngày chiến thắng trở về. Đến khi đất nước đã không còn bóng giặc thì Thành, Thăng, Long cũng đã nằm lại nơi chiến trường, chỉ còn lại mình Hoàng. Mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt của các nhân vật trong bộ phim đều để lại trong tâm hồn người xem biết bao day dứt, khắc khoải. Tác phẩm thực sự là khúc bi hùng ca về con người và đất nước Việt Nam.
Không chỉ thành công về mặt nội dung ý nghĩa truyền tải đến người xem, “Mùi cỏ cháy” còn là tác phẩm thành công về nghệ thuật làm phim. Tiến trình của phim đi theo mạch hồi tưởng của nhân vật Hoàng – khi ấy đã là một cựu chiến binh già tạo nên sự chân thực và gây xúc động mạnh cho người xem. Bên cạnh đó, đây còn là tác phẩm kết hợp hài hòa giữa chất thơ và chất hiện thực. Trong phim xuất hiện nhiều hình ảnh ẩn dụ như dòng máu chảy trên tượng cô gái khi Thành, Thăng, Long hy sinh hay tấm ruy đô Long mang từ nhà,…Bối cảnh của phim cũng được chau chuốt kĩ lưỡng để tái hiện đầy đủ vẻ đẹp làng quê Việt Nam với giếng nước, đốc ga. Các cảnh chiến trận được đoàn làm phim chuẩn bị vô cùng kì công với khoảng thời gian lên tới bốn tháng.
Với những nét hấp dẫn trên, “Mùi cỏ cháy” đã xứng đáng “Bông sen Bạc” tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 cùng 4 giải “Cánh diều vàng” tại Lễ trao giải Cánh Diều Vàng 2011. Đến nay, câu chuyện về bốn chàng thanh niên Hoàng, Thành, Thăng, Long vẫn được yêu mến và lấy đi nước mắt của khán giả. Lời nhận xét của đạo diễn Hữu Mười có lẽ đã đủ tổng kết giá trị của bộ phim: “”Vinh danh Mùi cỏ cháy, là vinh danh quá khứ (…) Chúng ta không bao giờ được phép quên quá khứ, nếu quên quá khứ sẽ không có tương lai”.
Bài tham khảo số 3
Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích trích từ câu “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh” đến “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây TầnNhững mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.
Bài tham khảo số 4
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bên cạnh những tác phẩm thơ văn nổi tiếng của cụ Nguyễn Đình Chiểu như: Ngư tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh… thì truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa dân gian các tỉnh phía Nam.
Đây là tác phẩm được cụ Đồ Chiểu viết trước khi Pháp xâm lược đất nước ta. Tác phẩm có tổng 2.075 câu thơ với hình thức truyện kể văn vần (hay còn gọi là truyện thơ) cùng nhiều hình tượng nghệ thuật đẹp trong văn chương đã được nhân dân đón nhận, yêu thích. Trong đó, nhân vật nam chính của tác phẩm là người hết mực hiếu thảo, nêu cao lý tưởng, dũng cảm đánh cướp Phong Lai cứu dân, đánh giặc Ô Qua cứu nước. Nhân vật nữ chính Kiều Nguyệt Nga, là cô gái thủy chung son sắt với Lục Vân Tiên theo quan điểm lấy chữ nghĩa làm gốc. Các nhà nghiên cứu nhận định, tác phẩm có sức sống rất lớn trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam, nhất là người dân Nam Bộ.
Tác phẩm Lục Vân Tiên đã thể hiện tư tưởng của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm không chỉ là gửi gắm niềm khát vọng, lý tưởng sống, mục đích sống, ý chí sống to lớn của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà còn phản ánh cuộc đời của cụ. Thông qua các tuyến nhân vật, cụ đã phê phán mạnh mẽ những xấu xa của xã hội.
Những câu thơ quen thuộc trong tác phẩm Lục Vân Tiên đã đi vào lòng nhiều thế hệ như: “Trước đèn xem chuyện Tây Minh/ Gẫm cười hai chữ “nhơn tình” éo le/ Hỡi ai, lẳng lặng mà nghe/ Giữ răn việc trước, lành dè thân sau/ Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình…”.
Tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm độc đáo “có một không hai” trong số những truyện thơ ở Việt Nam. Cụ đã tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa dân gian từ cách cảm, cách nghĩ đến lời ăn tiếng nói của người dân lao động nên khi chuyển tải vào tác phẩm Lục Vân Tiên, tác phẩm đã trở nên gần gũi với dân gian và sớm được nhân dân khai thác như nguồn chất liệu cho dân ca.
Tác phẩm Lục Vân Tiên không chỉ được xuất bản ở nhiều giai đoạn, mà còn được đưa vào dưới dạng đờn ca tài tử, với hình thức “ca ra bộ” đầu tiên của hình thức đờn ca tài tử, là một bước đệm để xây dựng nghệ thuật sân khấu cải lương. Đặc biệt, từ tác phẩm Lục Vân Tiên đã cho ra đời loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên.
Hình thức diễn xướng Nói thơ Vân Tiên trên vùng đất Bến Tre đã lan tỏa và có mặt trong một không gian rộng lớn cho thấy rằng, tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên có một giá trị rất sâu sắc trong đời sống cộng đồng. “Nói thơ Vân Tiên” hiện vẫn còn được lưu giữ trong ký ức của nhiều người lớn tuổi và được truyền dạy cho các thế hệ trẻ về sau.
Thế hệ trẻ sẽ tiếp tục gìn giữ, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của Bến Tre, trong đó, cần phát huy loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên phù hợp với điều kiện hiện nay như: trong sinh hoạt đoàn thể, trong giao lưu, trong các cuộc thi diễn…
Để tuyên truyền về các tác phẩm thơ văn của cụ Đồ Chiểu, nhất là truyện thơ Lục Vân Tiên, Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh nhiều tỉnh thành trên cả nước đã nhiều năm tổ chức Liên hoan Đờn ca tài tử và Hội thi hóa trang Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga. Trong đó, có trình diễn lại truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã có những định hướng về nội dung này. Bên cạnh những hoạt động nghiên cứu, dự kiến sẽ có lớp tập huấn cho các đối tượng như: học sinh, sinh viên, công nhân, viên chức, lao động, hướng dẫn viên và những người hoạt động trong hoạt động du lịch…
Truyện thơ Lục Vân Tiên đã trở thành tác phẩm quen thuộc trong các tầng lớp nhân dân cả xưa và nay, có thể ít người nhớ hết trọn vẹn truyện thơ nhưng các tuyến nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga… đã đi sâu vào tâm thức của nhiều thế hệ, và nhiều người vẫn nhớ vài đoạn thơ trong số ấy: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng…”.
Bài tham khảo số 5
Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với bộ mặt giai cấp tàn bạo của những kẻ thống trị mất tính người. Sức mạnh của đồng tiền của danh lợi khiến cho những người phụ nữ khốn khổ trở thành món hàng cho bọn buôn phấn bán hương trong xã hội.Gia đình nhà họ Vương đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc bình yên nhưng lại bị một người bán tơ vu oan giá họa tai ương ập xuống đầu, khiến cho một gia đình đang hạnh phúc vướng vòng lao lý. Sau khi gia đình xảy ra biến cố bọn quan chức nha sai triều đình đã tranh thủ cướp của nhà Thúy Kiều, chúng đã được một lũ quan lại tham ô dung túng thừa nước đục thả câu vơ vét tiền của của người dân vào túi mình. Tên quan xử kiện cho cha Thúy Kiều cũng là người ăn tiền, lợi dụng chức quyền để kiếm chác.
Sức mạnh của đồng tiền nặng tựa ngàn cân nằm trong tay kẻ tàn bạo, đồng tiền thành một thế lực vô cùng mạnh nó có thể chi phối mọi giá trị đạo đức của con người, làm mất lương tri của một con người. Những người mang chức trách giúp người dân lấy lại đạo lý nhưng lại vì tiền mà bẻ cong công lý. Cuộc sống vốn nhiều nước mắt của con gái tài sắc, mười phân vẹn mười Thúy Kiều bắt đầu dùng sức mạnh, quyền lực để tạo nên thế lực kiếm những đồng tiền dơ bẩn.Giá trị nhân đạo của của Truyện Kiều thể hiện việc tác giả Nguyễn Du đề cao con người từ phẩm chất, tài năng, ngoại hình cho tới những ước mơ chân thành. Người đọc có thể cảm nhận được là Thúy Vân có vẻ đẹp vô cùng nền nã, đoan trang, hiền thục, thể hiện một con người hiền lành, có cuộc sống vô cùng bình yên hạnh phúc. Còn Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo thể hiện một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn.Thúy Kiều cũng là một người có tài năng xuất chúng. Xưa nay phụ nữ đẹp thường ít thông minh và tài năng. Nhưng Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm xưa nay hiếm thấy ở một người phụ nữ. Vương Thúy Kiều có tài năng cầm kỳ thi họa, tài sắc đều mười phân vẹn mười. Với vẻ đẹp một hai nghiêng nước nghiêng thành.Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị.
Gia đình nhà Vương Ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Để từ đó, khiến cho cuộc đời Kiều phải rẽ hướng, hướng đi mới của số phận Kiều nghiệt ngã, đau đớn, tủi hổ vô cùng.Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lăng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, đày đọa khiến cuối cùng phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân. Qua nhân vật Thúy Kiều tác giả Nguyễn Du đã lên án tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo chà đạp lên con người, lên quyền hưởng thụ hạnh phúc của những người con gái tài sắc. Vương Thúy Kiều đã vướng phải mười lăm năm lưu lạc phải rơi vào chốn lầu xanh hết lần này tới lần khác khiến cho cuộc sống của cô sống không bằng chết. Qua mười lăm năm lưu lạc không có gì mà Thúy Kiều chưa trải qua nàng cũng đã tìm cách tự vẫn nhiều lần nhưng đều được cứu giúp.
Từ một cô gái con nhà tiểu thư khuê các Thúy Kiều trở thành hàng hóa để người ta mua bán, trao đổi bị lừa gạt hết lần này tới lần khác, đem thân đi làm vợ lẽ người ta, làm gia nô, rồi bị hành hạ tra tấn đánh đòn. Thúy Kiều bị lăng nhục trở thành tội phạm ở chốn quan trường bị sỉ nhục rơi vào cảnh giết chồng, nỗi oan chồng chất. Cuộc đời Thúy Kiều là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của chế độ xã hội xưa.Chính xã hội bất lương đó đã xô đẩy người con gái tài sắc, có đức hạnh, hiếu nghĩa rơi vào hoàn cảnh khó khăn, mất đi hạnh phúc của đời mình chịu cảnh bể dâu phong trần. Qua Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Du trước những đau khổ của con người nhất là số phận người phụ nữ như Thúy Kiều. Bên cạnh đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể người đọc khắc sâu trong lòng người đọc, bởi giá trị nghệ thuật và giá trị nhân đạo. Trong tác phẩm của ông thể hiện sự tài hoa vô cùng sắc sắc, tinh tế, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật vô cùng sâu sắc.Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác lừng lẫy, với bút pháp của một nhà thơ thiên tài, nghệ thuật tự sự, thể hiện sự thành công trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Thông qua thiên truyện tuyệt tác này tác giả Nguyễn Du thể hiện một giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nó nhằm tố cáo tội ác của một chế độ phong kiến thối nát, mục ruỗng lợi dụng thân xác phụ nữ kiếm tiền.
Tác giả Nguyễn Du thể hiện sự đồng cảm xót xa của mình với người phụ nữ công dung ngôn hạnh, tài sắc vẹn toàn đáng lẽ ra phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nhưng lại chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống, chịu cảnh lưu vong, cơ cực.
Bài tham khảo số 6
Nguyễn Đình Chiểu sinh thời vào lúc loạn lạc, dù sớm đỗ đạt nhưng đến năm 26 tuổi đã bị mù, ông trở về làm thầy thuốc, làm một nhà thơ. Bằng tài năng và đức độ hơn người, Nguyễn Đình Chiểu đã khiến biết bao người ngưỡng mộ. Các bài văn thơ của ông dùng để khích lệ tinh thần chiến đấu và mang tính giáo huấn cao. Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của ông.
Lục Vân Tiên được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa hình ảnh đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, ân tình. Nội dung chính của tác phẩm này là khi Lục Vân Tiên nghe tin triều đình mở khoa thi, chàng đã vội từ biệt thầy đi đua tài.
Trên đường về, vô tình gặp cảnh Kiều Nguyệt Nga bị cướp chàng đã ra tay trượng nghĩa cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Hình tượng Lục Vân Tiên được xây dựng theo mô típ quen thuộc của truyện dân gian, trượng nghĩa, anh tài, ra tay cứu giúp người bị nạn. Đây là nhân vật lý tưởng của văn học trung đại, thể hiện những khao khát mơ ước của nhân dân ta. Chàng mang lí tưởng lớn, lập thân lập danh giúp đời. Và trên đường về gặp chuyện bất bình, Lục Vân Tiên không hề ngần ngại mà ngay lập tức ra tay trượng nghĩa:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Dù chỉ có một mình, trên tay chỉ có cây gậy nhưng Vân Tiên dám đương đầu với lũ cướp vừa đông vừa rất hung hãn. Hành động đó cho thấy tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên. Trước sự dọa nạt của những tên cướp, Vân Tiên không hề nao núng: “Vân Tiên tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”.
Không chỉ là một người có tinh thần trượng nghĩa, mà chàng còn là người hết sức khuôn phép, lịch sự với người khác giới. Sau khi đuổi hết lũ lâu la, Vân Tiên còn tiến lại hỏi han, an ủi những người bị nạn. Không chỉ vậy, khi nghe nói họ muốn được lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt ngay đi:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Dường như với Lục Vân Tiên, làm việc nghĩa là một bổn phận, một lẽ tự nhiên, con người trọng nghĩa khinh tài ấy không coi đó là công trạng. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán. Bởi chàng quan niệm:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Vân Tiên là mẫu anh hùng lí tưởng, mà qua nhân vật này nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm nhiều niềm tin, mơ ước, khát vọng của mình.
Bên cạnh nhân vật Lục Vân Tiên ta còn thấy một nàng Kiều Nguyệt Nga hết sức chừng mực, nết na, hiếu thảo. Nàng xưng hô rất khiêm nhường “tiện thiếp”, cùng với đó là cách nói năng hết sức nhẹ nhàng, khuôn phép: “Làm con đâu dám cãi cha/ Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành” . Lời nói của nàng hết rõ ràng, mạch lạc, vừa đẩy đủ thông tin vừa thể hiện niềm biết ơn chân thành với ân nhân đã giúp đỡ.
Đồng thời nàng cũng là con người biết cách ứng xử, có trước có sau. Việc Vân tiên cứu nàng đâu chỉ là cứu mạng sống, mà còn cứu cả một đời trinh bạch của người con gái, bởi vậy, nàng càng biết ơn Vân Tiên hơn. Cũng bởi thế nàng áy náy không biết lấy gì đền đáp công ơn to lớn đó:
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Và cuối cùng nàng đã quyết lấy thân mình, tự nguyện gắn bó cả đời với chàng trai hiệp nghĩa đó. Hàng ngày nâng khăn sửa túi để báo đáp ơn lớn của Vân Tiên đối với nàng. Những nét đẹp trong phẩm chất, trong hành xử của Kiều Nguyệt Nga đã chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga tuy ngắn ngủi nhưng đã làm nổi bật vẻ đẹp phẩm chất của hai nhân vật: Lục Vân Tiên trượng nghĩa khinh tài, Kiều Nguyệt Nga thì nết na thùy mị. Hai nhân vật đại diện cho lý tưởng của nhân dân ta. Đồng thời qua các nhân vật này cũng gửi gắm những thông điệp sâu sắc của nhà thơ.
Bài tham khảo số 7
Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với bộ mặt giai cấp tàn bạo của những kẻ thống trị mất tính người. Sức mạnh của đồng tiền của danh lợi khiến cho những người phụ nữ khốn khổ trở thành món hàng cho bọn buôn phấn bán hương trong xã hội.Gia đình nhà họ Vương đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc bình yên nhưng lại bị một người bán tơ vu oan giá họa tai ương ập xuống đầu, khiến cho một gia đình đang hạnh phúc vướng vòng lao lý. Sau khi gia đình xảy ra biến cố bọn quan chức nha sai triều đình đã tranh thủ cướp của nhà Thúy Kiều, chúng đã được một lũ quan lại tham ô dung túng thừa nước đục thả câu vơ vét tiền của của người dân vào túi mình. Tên quan xử kiện cho cha Thúy Kiều cũng là người ăn tiền, lợi dụng chức quyền để kiếm chác.
Sức mạnh của đồng tiền nặng tựa ngàn cân nằm trong tay kẻ tàn bạo, đồng tiền thành một thế lực vô cùng mạnh nó có thể chi phối mọi giá trị đạo đức của con người, làm mất lương tri của một con người. Những người mang chức trách giúp người dân lấy lại đạo lý nhưng lại vì tiền mà bẻ cong công lý. Cuộc sống vốn nhiều nước mắt của con gái tài sắc, mười phân vẹn mười Thúy Kiều bắt đầu dùng sức mạnh, quyền lực để tạo nên thế lực kiếm những đồng tiền dơ bẩn.Giá trị nhân đạo của của Truyện Kiều thể hiện việc tác giả Nguyễn Du đề cao con người từ phẩm chất, tài năng, ngoại hình cho tới những ước mơ chân thành. Người đọc có thể cảm nhận được là Thúy Vân có vẻ đẹp vô cùng nền nã, đoan trang, hiền thục, thể hiện một con người hiền lành, có cuộc sống vô cùng bình yên hạnh phúc. Còn Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo thể hiện một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn.Thúy Kiều cũng là một người có tài năng xuất chúng. Xưa nay phụ nữ đẹp thường ít thông minh và tài năng. Nhưng Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm xưa nay hiếm thấy ở một người phụ nữ. Vương Thúy Kiều có tài năng cầm kỳ thi họa, tài sắc đều mười phân vẹn mười. Với vẻ đẹp một hai nghiêng nước nghiêng thành.Giá trị nội dung của truyện được thể hiện qua giá trị hiện thực và nhân đạo. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị.
Gia đình nhà Vương Ông đang sống bình yên, chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, thế là cuộc sống yên lành bị phá vỡ, tai hoạ ở đâu ập xuống nhà Kiều. Để từ đó, khiến cho cuộc đời Kiều phải rẽ hướng, hướng đi mới của số phận Kiều nghiệt ngã, đau đớn, tủi hổ vô cùng.Bên cạnh đó Truyện Kiều còn lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người, đề cao tự do và công lí. Thuý Kiều điển hình cho người phụ nữ trong xã hội xưa, mười lăm năm lưu lạc của nàng là một chuỗi bi kịch. Dường như bao nhiêu nỗi cực khổ của người đàn bà thời trước đều ập xuống vai nàng. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi Kiều bị lừa gạt bị rơi vào lầu xanh tới hai lần, đem thân đi làm lẽ, làm đứa ở, rồi bị đánh đòn, lăng nhục trở thành tội phạm ở công đường, bị sỉ nhục, đày đọa khiến cuối cùng phải tự vẫn. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân. Qua nhân vật Thúy Kiều tác giả Nguyễn Du đã lên án tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo chà đạp lên con người, lên quyền hưởng thụ hạnh phúc của những người con gái tài sắc. Vương Thúy Kiều đã vướng phải mười lăm năm lưu lạc phải rơi vào chốn lầu xanh hết lần này tới lần khác khiến cho cuộc sống của cô sống không bằng chết. Qua mười lăm năm lưu lạc không có gì mà Thúy Kiều chưa trải qua nàng cũng đã tìm cách tự vẫn nhiều lần nhưng đều được cứu giúp.
Từ một cô gái con nhà tiểu thư khuê các Thúy Kiều trở thành hàng hóa để người ta mua bán, trao đổi bị lừa gạt hết lần này tới lần khác, đem thân đi làm vợ lẽ người ta, làm gia nô, rồi bị hành hạ tra tấn đánh đòn. Thúy Kiều bị lăng nhục trở thành tội phạm ở chốn quan trường bị sỉ nhục rơi vào cảnh giết chồng, nỗi oan chồng chất. Cuộc đời Thúy Kiều là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của chế độ xã hội xưa.Chính xã hội bất lương đó đã xô đẩy người con gái tài sắc, có đức hạnh, hiếu nghĩa rơi vào hoàn cảnh khó khăn, mất đi hạnh phúc của đời mình chịu cảnh bể dâu phong trần. Qua Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Du trước những đau khổ của con người nhất là số phận người phụ nữ như Thúy Kiều. Bên cạnh đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể người đọc khắc sâu trong lòng người đọc, bởi giá trị nghệ thuật và giá trị nhân đạo. Trong tác phẩm của ông thể hiện sự tài hoa vô cùng sắc sắc, tinh tế, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật vô cùng sâu sắc.Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác lừng lẫy, với bút pháp của một nhà thơ thiên tài, nghệ thuật tự sự, thể hiện sự thành công trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Thông qua thiên truyện tuyệt tác này tác giả Nguyễn Du thể hiện một giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nó nhằm tố cáo tội ác của một chế độ phong kiến thối nát, mục ruỗng lợi dụng thân xác phụ nữ kiếm tiền.
Tác giả Nguyễn Du thể hiện sự đồng cảm xót xa của mình với người phụ nữ công dung ngôn hạnh, tài sắc vẹn toàn đáng lẽ ra phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nhưng lại chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống, chịu cảnh lưu vong, cơ cực.
Với bài văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (truyện thơ) hoặc một tác phẩm nghệ thuật (bài hát) Ngữ văn lớp 11 sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 11.